QUY ĐỊNH VỀ NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA BÊN BÁN VÀ NGHĨA VỤ ĐỐI ỨNG CỦA BÊN MUA TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Chủ nhật - 29/06/2025 14:31
Tóm tắt: Bài viết hệ thống hóa quy định pháp lý về nghĩa vụ giao hàng của bên bán và nghĩa vụ đối ứng (thanh toán, nhận hàng, kiểm tra) của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa, dựa trên Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015...

 

Phân tích cho thấy dù khung pháp lý cơ bản đã được thiết lập nhưng vẫn tồn tại các bất cập như thiếu hướng dẫn chi tiết về thời gian, địa điểm giao hàng, chứng từ và phương thức giao nhận, cũng như quy định chế tài xử lý vi phạm chưa linh hoạt khi các bên vi phạm nghĩa vụ. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất hoàn thiện pháp luật bằng việc bổ sung quy định về xác nhận chất lượng hàng hóa, khung thời hạn thông báo địa điểm nhận hàng, cơ chế giao nhận và tăng cường công cụ xử phạt vi phạm. Những kiến nghị này nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả, bảo vệ quyền lợi các bên và thúc đẩy thương mại bền vững.

z6753321965464 8895261b0497440a4cdd650741f4bb52

Luật sư, ThS. Lê Kiên Lương - Giám đốc Công ty Luật TNHH MTV Thiên Hương

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế, hợp đồng mua bán hàng hóa trở thành công cụ pháp lý quan trọng, điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các bên. Nghĩa vụ giao hàng của bên bán và nghĩa vụ đối ứng của bên mua (thanh toán, nhận hàng, kiểm tra hàng) là những yếu tố cốt lõi, quyết định sự thành công của giao dịch. Tại Việt Nam, quy định về các nghĩa vụ này được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy nhiều hạn chế, từ sự thiếu rõ ràng trong quy định pháp luật, sự chồng chéo giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự đến nhận thức chưa đầy đủ của bản thân các doanh nghiệp.

Sự cần thiết nghiên cứu vấn đề này xuất phát từ thực trạng gia tăng tranh chấp liên quan đến giao hàng, như giao sai số lượng, chất lượng, không đúng thời gian, địa điểm hoặc sự vi phạm về nghĩa vụ nhận hàng, thanh toán gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Những bất cập này không chỉ làm giảm hiệu quả thực thi hợp đồng mà còn cản trở sự phát triển thương mại bền vững. Do đó, bài viết nhằm phân tích các quy định pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng áp dụng và đề xuất giải pháp hoàn thiện, góp phần xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, hiệu quả.

Quy định pháp luật về nghĩa vụ giao hàng của bên bán

Mục đích chính của hợp đồng mua bán hàng hóa là sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa và nhận thanh toán. Chính vì vậy, nghĩa vụ đầu tiên được nhắc đến của bên bán trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là nghĩa vụ giao hàng. Nghĩa vụ này cũng là một trong hai nghĩa vụ cơ bản nhất trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Mặc dù Luật Thương mại năm 2005 không định nghĩa cụ thể về khái niệm này tuy nhiên tại Điều 34 có nêu: “Bên bán có nghĩa vụ giao hàng theo đúng chủng loại, số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác đã thỏa thuận”. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể, bên bán vẫn phải giao hàng đủ về số lượng, chất lượng theo thỏa thuận chung hoặc quy định của pháp luật.

Như vậy, dù các bên có thỏa thuận hay không, pháp luật vẫn quy định giao hàng là một nghĩa vụ bắt buộc đối với bên bán. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu bên bán không giao hàng thì bên mua không thể thực hiện các cam kết tiếp theo như nhận hàng, thanh toán. Do vậy, giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất, cũng là bước tiên quyết trong việc hiện thực hóa hợp đồng.

Theo đó, các yêu cầu cụ thể về nghĩa vụ giao hàng bao gồm:

Giao Hàng Đúng Số Lượng và Chủng Loại

Điều 41 và Điều 43 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên bán phải giao đúng số lượng và chủng loại hàng hóa theo hợp đồng. Nếu giao thiếu, bên bán có thể bổ sung trong thời hạn còn lại; nếu giao thừa, bên mua có quyền từ chối phần thừa trừ khi có thỏa thuận khác. Trường hợp giao sai chủng loại, hàng hóa được coi là không phù hợp (Điều 39), và bên bán chịu trách nhiệm theo Điều 40, trừ khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếm khuyết tại thời điểm giao kết hợp đồng.

Giao Hàng Đúng Thời Gian, Thời Hạn

Theo Điều 37 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên bán phải giao hàng đúng thời điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu chỉ có thời hạn mà không xác định thời điểm cụ thể, bên bán có thể giao bất kỳ lúc nào trong thời hạn đó nhưng phải thông báo trước. Trường hợp không có thỏa thuận, giao hàng phải thực hiện trong thời gian hợp lý sau khi giao kết hợp đồng. Điều 38 Luật Thương mại năm 2005 cho phép bên mua từ chối nhận hàng nếu bên bán giao trước thời hạn mà không có thỏa thuận.

Yếu tố thời gian luôn được đề cao trong hợp đồng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và lợi nhuận kinh doanh. Chính vì vậy các bên tham gia hợp đồng cần thỏa thuận một cách chi tiết và rõ ràng vấn đề này khi giao kết hợp đồng để tránh những tranh chấp và thiệt hại xảy ra.

Giao Hàng Đúng Địa Điểm

Địa điểm giao nhận hàng hóa chính là nơi các bên tiến hành giao nhận hàng hóa. Việc xác định địa điểm giao nhận hàng hoá mang ý nghĩa quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vận chuyển và tính toán rủi ro khi vận chuyển. Điều 35 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên bán phải giao hàng tại địa điểm thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, địa điểm giao hàng được xác định theo các trường hợp cụ thể: nơi có hàng hóa (đối với vật gắn liền với đất đai), nơi giao cho người vận chuyển đầu tiên (nếu có quy định vận chuyển), hoặc địa điểm kinh doanh/nơi cư trú của bên bán.

Giao Chứng Từ Liên Quan

Song song với nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm, đúng thời gian, giao hàng đúng số lượng và chất lượng thì bên bán còn có nghĩa vụ giao các giấy tờ, chứng từ có liên quan tới hàng hóa. Chứng từ sẽ chứng minh cho việc giao hàng của bên bán, làm cơ sở để bên mua thực hiện nghĩa vụ thanh toán sau khi nhận hàng.

Theo quy định tại Điều 42 Luật Thương mại năm 2005 yêu cầu bên bán giao chứng từ liên quan đến hàng hóa (như hóa đơn, giấy chứng nhận xuất xứ) theo thỏa thuận về thời gian, địa điểm và phương thức. Nếu không có thỏa thuận, chứng từ phải được giao trong thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua nhận hàng.

Nghĩa vụ bàn giao giấy tờ, chứng từ liên quan đến hàng hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó chứng minh quyền sở hữu hàng hóa để bên mua có thể nhận hàng; Đáp ứng các yêu cầu về pháp luật, hải quan, hoặc các cơ quan liên quan; Đảm bảo rằng hàng hóa được giao đúng với các điều khoản hợp đồng.

Về cơ bản các nghĩa vụ của bên bán liên quan đến việc giao hàng đã được quy định cụ thể, rõ ràng từ đó giúp cho bên bán xác định được những công việc mình phải làm, định hướng cho các bên tham gia hợp đồng biết và thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Phương Thức Giao Nhận

Phương thức giao nhận hàng hóa là cách thức tổ chức, thực hiện quá trình giao và nhận hàng giữa bên bán và bên mua. Việc lựa chọn phương thức phù hợp phụ thuộc vào loại hàng hóa, thỏa thuận hợp đồng, điều kiện giao thương, và các quy định pháp luật liên quan. Luật Thương mại 2005 không quy định cụ thể về phương thức giao nhận, mà để các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, Điều 436 BLDS 2015 bổ sung rằng tài sản (hàng hóa) được giao theo thỏa thuận; nếu không có thỏa thận, giao một lần và trực tiếp cho bên mua.

Quy định pháp luật về nghĩa vụ đối ứng của bên mua

Đối ứng với nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán của bên mua, bên bán cũng phải thực hiện đồng thời những nghĩa vụ pháp lý thiết yếu nhằm bảo đảm hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Luật Thương mại năm 2005 quy định bên mua có các nghĩa vụ chính: nhận và kiểm tra hàng hóa, thanh toán theo đúng thỏa thuận.

Cụ thể, Điều 50 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận”. Đồng thời, bên mua phải tuân thủ phương thức thanh toán và thực hiện thanh toán đúng trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và quy định pháp luật. Với hợp đồng mua bán quốc tế, thanh toán bằng ngoại tệ được coi là phù hợp nếu không vi phạm điều ước quốc tế. Pháp luật cũng cho phép bên mua được hoãn hoặc tạm ngừng thanh toán trong các trường hợp nhất định (bên bán lừa dối, hàng có tranh chấp, hoặc bên bán giao hàng không đúng). Sau khi nhận hàng, bên mua phải thanh toán dù hàng có bị mất mát, hư hỏng sau khi rủi ro đã chuyển sang, trừ trường hợp lỗi này do bên bán gây ra.

Về nghĩa vụ nhận hàng: Điều 56 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận và thực hiện những việc cần thiết để giúp bên bán giao hàng. Nếu bên mua không đến nhận hàng hoặc chậm trễ trái với thỏa thuận, điều này có thể xem là vi phạm nghĩa vụ.

Đối với nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa: Điều 44 Luật Thương mại năm 2005 quy định rõ trước khi nhận hàng, nếu hợp đồng có thỏa thuận về việc kiểm tra hàng, bên mua hoặc đại diện của mình có thể tiến hành kiểm tra và bên bán phải tạo điều kiện cho việc này. Sau khi kiểm tra, bên mua có trách nhiệm thông báo kịp thời cho bên bán nếu phát hiện khuyết tật; nếu không báo ngay, bên bán có thể không chịu trách nhiệm đối với những khuyết tật đã biết hoặc nên biết khi giao hàng. Như vậy, bên mua có quyền yêu cầu hàng hoá giao đúng chất lượng, nhưng cũng phải chủ động kiểm tra và nhận hàng theo thỏa thuận.

Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung các quy định chung tương thích, cụ thể tại Điều 440 quy định “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng”. Đồng thời, Điều 441 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đưa ra quy định về xác định thời điểm chuyển rủi ro, theo đó bên bán chịu rủi ro trước khi giao, bên mua chịu rủi ro từ thời điểm nhận tài sản (trừ thỏa thuận khác). Về chi phí vận chuyển hàng hóa Điều 442 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chi phí vận chuyển do các bên thỏa thuận nếu không thỏa thuận thì bên bán chịu chi phí đến nơi giao. Những quy định này tạo cơ sơ cũng như bổ sung cho Luật Thương mại trong xử lý một số tình huống chung, tuy nhiên cũng cần lưu ý khi luật chuyên ngành (Luật Thương mại) và luật chung (Bộ luật Dân sự) đều có điều khoản thì cần xác định áp dụng theo nguyên tắc ưu tiên Luật chuyên ngành.

Những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật

Mặc dù khung pháp lý về nghĩa vụ giao hàng của bên bán và các nghĩa vụ đối ứng của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ song vẫn tồn tại một số lỗ hổng và mâu thuẫn, cụ thể như sau

Bất cập trong quy định về nghĩa vụ giao hàng của bên bán

Về Số Lượng và Chất Lượng hàng hóa

Điều 40 Luật Thương mại quy định bên bán chịu trách nhiệm về khiếm khuyết hàng hóa trước thời điểm chuyển rủi ro, kể cả trường hợp khiếm khuyết được phát hiện sau đó. Tuy nhiên, pháp luật không bắt buộc các bên phải xác nhận chất lượng tại thời điểm giao nhận. Việc pháp luật còn thiếu quy định về thời điểm xác nhận số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa sẽ dẫn tới việc doanh nghiệp cũng không thỏa thuận với nhau trong các hợp đồng mua bán. Điều này dẫn đến hệ quả là, nếu hàng hóa hư hỏng sau khi giao do bên mua bảo quản sai cách, bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm nếu không chứng minh được bên mua đã biết về khiếm khuyết – một yêu cầu gần như bất khả thi trong thực tế, kéo dài tranh chấp và gây bất lợi cho cả hai bên.

Về Thời Gian Giao Hàng

Điều 37 Luật Thương mại năm 2005 cho phép bên bán giao hàng bất kỳ lúc nào trong thời hạn thỏa thuận nếu thông báo trước, nhưng không quy định thời hạn bên mua phải phản hồi thông báo này. Trong thực tế vẫn xảy ra những trường hợp khi giao kết hợp đồng hai bên không thỏa thuận trước về thời gian giao hàng cụ thể mà chỉ thỏa thuận về thời hạn giao hàng. Sau đó bên bán khi thực hiện việc giao hàng sẽ tiến hành thông báo cho bên mua về thời gian giao hàng cụ thể nhưng bên mua không phản hồi hoặc chậm trễ trong việc phản hồi. Vì sợ vi phạm nghĩa vụ về thời hạn giao hàng đã thỏa thuận nên bên bán phải tiến hành việc giao hàng, nhưng bên mua lại không tạo điều kiện cho bên bán giao hàng, đồng thời không nhận hàng. Điều này khiến cho bên bán giao hàng không thành công phải đưa hàng về và phải chịu các chi phí phát sinh như: lưu kho bãi, bảo quản hàng hóa... làm thiệt hại trực tiếp kinh tế cho bên bán do pháp luật chưa có quy định về vấn đề này.

Về Địa Điểm Giao Nhận

Hiện tại, theo quy định tại Luật thương mại 2005 thì các điều khoản quy định về địa điểm giao nhận hàng hóa còn khá sơ sài. Tại Điều 35 Luật Thương mại năm 2005 yêu cầu giao hàng đúng địa điểm thỏa thuận, nhưng không quy định thời hạn bên mua phải thông báo hoặc thay đổi địa điểm. Trong thực tiễn, việc thông báo muộn hoặc thay đổi đột ngột khiến bên bán không kịp điều chỉnh phương tiện vận chuyển, dẫn đến giao hàng trễ hoặc vi phạm hợp đồng. Thông tin địa điểm giao hàng mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc chưa có quy định về thời hạn thông báo địa điểm nhận hàng hoặc thay đổi địa điểm nhận hàng của bên mua cho bên bán sẽ gây khó khăn và rủi ro cho bên bán.

Về Chứng Từ

Điều 42 Luật Thương mại năm 2005 yêu cầu bên bán giao chứng từ trong thời hạn và địa điểm hợp lý, nhưng không quy định thời hạn bên mua cung cấp địa điểm giao chứng từ. Điều này gây khó khăn trong các giao dịch xuất nhập khẩu, khi chứng từ không được giao kịp thời do địa điểm không rõ, dẫn đến hàng hóa bị lưu kho tại cảng, phát sinh chi phí lớn.

Về Phương Thức Giao Nhận

Pháp luật hiện hành để các bên tự thỏa thuận mà không cung cấp hướng dẫn cụ thể. Sự thiếu định hướng này khiến doanh nghiệp, đặc biệt là các đơn vị nhỏ, lúng túng khi áp dụng các phương thức hiện đại như giao qua sàn thương mại điện tử hay giao nhiều lần, dễ dẫn đến tranh chấp do không thống nhất.

Bất cập trong quy định về nghĩa vụ thanh toán của bên mua Về thời điểm thanh toán

Các quy định về thời điểm thanh toán trong Luật Thương mại đang có sự mơ hồ. Cụ thể, khoản 2 Điều 55 Luật Thương mại năm 2005 quy định “Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hóa trong trường hợp có thỏa thuận kiểm

tra trước khi giao”. Luật không xác định “khi nào coi là đã kiểm tra xong” và hậu quả của việc kiểm tra kéo dài bao lâu, dẫn đến tranh chấp nếu bên mua cố tình chậm trả lý do đang kiểm hàng. Chưa kể, khái niệm “thanh toán theo thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật” được quy định tại Điều 50 cũng rất chung chung: nhiều công ty vẫn gặp khó khăn do không rõ “quy định của pháp luật” ở đây là nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí nào trước khi trả tiền hay quy định ngân hàng xử lý ra sao…

Về mức phạt vi phạm

Theo khoản 1 Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, mức phạt vi phạm hợp đồng không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Tuy nhiên, quy định này lại mâu thuẫn với nguyên tắc tự do, tự nguyện xác lập, thỏa thuận của Bộ luật Dân sự 2015. Trải qua hai thập kỷ thực thi trong bối cảnh kinh tế – thị trường đã có nhiều biến động và đa dạng hóa, việc duy trì một mức trần phạt cố định 8% không còn thực sự phản ánh tính răn đe và linh hoạt cần thiết.

Tại Pháp, pháp luật của Cộng hòa Pháp quy định về điều khoản phạt vi phạm như sau:

“Điều khoản mà theo đó một người, để bảo đảm việc thực hiện một nghĩa vụ, cam kết sẽ thực hiện một điều gì đó trong trường hợp không thực hiện được nghĩa vụ ấy, là một điều khoản phạt” 1. Như vậy, pháp luật của Pháp không đưa ra mức tối đa đối với chế tài phạt vi phạm mà do các bên tự thỏa thuận, khi tranh chấp Tòa án sẽ can thiệp và đánh giá gọi là “mức phạt hợp lý” (raisonnable pénalité)

Về áp dụng các chế tài xử lý vi phạm

Có sự chồng chéo mâu thuẫn giữa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 trong chế tài xử lý vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

Cụ thể theo khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hạ thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Quy định này thể hiện rằng, để áp dụng đồng thời cả hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, các bên cần có thỏa thuận rõ ràng về cả hai; nếu không, chỉ chế tài phạt vi phạm được áp dụng.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại năm 2005 lại quy định “trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Quy định này cho thấy, trong lĩnh vực thương mại, chỉ cần có thỏa thuận về phạt vi phạm, bên bị vi phạm tự động có quyền yêu cầu cả bồi thường thiệt hại mà không cần thêm thỏa thuận cụ thể về việc này, trừ khi Luật Thương mại quy định ngoại lệ.

1Điều 1231-5 Bộ luật Dân sự Pháp: “La clause par laquelle une personne, pour assurer l’exécution d’une obligation, s’engage à quelque chose en cas d’inexécution est une clause pénale.”

Như vậy, có sự bất nhất giữa Bộ luật Dân sự và Luật thương mại trong việc xác định điều kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Mặc dù theo nguyên tắc Luật chuyên ngành được ưu tiên áp dụng, tuy nhiên sự bất nhất này có thể khiến các bên tham gia giao dịch có thể hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, đặc biệt trong các hợp đồng có yếu tố kết hợp giữa dân sự và thương mại, dẫn đến khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.

Thêm vào đó, Điều 52 Luật Thương mại năm 2005 cho phép bên mua được tạm ngừng thanh toán khi có tranh chấp về hàng hoặc bên bán giao hàng không phù hợp. Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự năm 2015 quyền của bên mua khi không nhận hàng thường được hiểu qua các quy định về sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng được quy định từ Điều 421 đến Điều 423 hoặc bồi thường thiệt hại, chứ không có quy định riêng về “tạm ngừng thanh toán”. Điều này có nghĩa là nếu áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự thì bên mua chỉ có quyền hủy hợp đồng, yêu cầu bồi thường hoặc yêu cầu thực hiện tiếp chứ không được chủ động trì hoãn việc trả tiền.

Vấn về về việc áp dụng kết hợp giữa các chế tài xử lý vi phạm cũng đang gây nhiều tranh cãi hiện nay là việc kết hợp giữa phạt vi phạm và lãi chậm thanh toán. Theo đó, hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc kết hợp chế tài phạt vi phạm hợp đồng và lãi chậm trả xuất phát từ hành vi chậm trả tiền của bên mua. Do đó, trên thực tế giữa Tòa án và các Trung tâm trọng tài thương mại đang có những quan điểm xét xử khác nhau về vấn đề này. Theo quan điểm xét xử của Tòa án thì căn cứ nguyên tắc Điều 12 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao thì “chỉ xử lý một lần đối với những hành vi vi phạm không trả nợ đúng hạn”, do đó không chấp nhận yêu cầu vừa phạt vi phạm vừa tính lãi chậm trả trên số tiền chậm trả. Ngược lại, theo quan điểm của các Trung tâm trọng tài thương mại thì nguyên tắc trên chỉ điều chỉnh cho Hợp đồng vay tài sản không áp dụng cho các hợp đồng thương mại về mua bán hàng hóa. Do đó, không có quy định nào cấm việc kết hợp trên và khi các điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng và lãi chậm trả hội đủ thì chúng ta áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng và chế tài lãi chậm trả. Nói cách khác, hai chế tài trên tồn tại song song với nhau, không loại trừ nhau và hoàn toàn có thể kết hợp cùng nhau.2

Ngoài ra, quan hệ mua bán qua thương mại điện tử, mua bán xuyên biên giới hiện cũng không được luật hiện hành quy định chi tiết nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán. Luật chưa định nghĩa cụ thể về “nhận hàng” điện tử (ví dụ tiếp nhận bản sao điện tử, mã QR, hay hàng hóa ảo), chưa điều chỉnh các phương thức thanh toán hiện đại (ứng dụng ví điện tử, QR Pay, tiền ảo được công nhận). Do đó, trong giao dịch quốc tế hoặc kinh doanh điện tử, nhà nước và doanh nghiệp thiếu căn cứ pháp lý để xử lý khi người mua tranh chấp rằng chưa “tiếp nhận” đủ hàng hóa hoặc chưa nhận được thanh toán theo hợp đồng.

Thực trạng áp dụng pháp luật

2 Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, “Kết hợp phạt vi phạm hợp đồng và lãi chậm trả tiền”, https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/055-%7C-ket-hop-phat-vi-pham-hop-dong-va-lai-cham-tra-tien- a198.html, truy cập ngày 27/6/2025

Trong thực tiễn, phần lớn các tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa đều bắt nguồn từ việc một trong các bên không tuân thủ đúng các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Những tranh chấp này không chỉ phản ánh hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia mà còn khẳng định lại những bất cập, thiếu sót trong hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa mà tác giả đã phân tích.

Chẳng hạn, Bản Án số 466/2020/KDTM-PT ngày 05/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của Tòa án nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử bản án sơ thẩm số 13/2019/KDTM-ST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân Dân Quận H bị kháng cáo3. Cụ thể giữa Nguyên đơn (Công ty Cổ phần NT) và bị đơn (Công ty TNHH Xây dựng và Khảo sát công trình TT) ký Hợp đồng kinh tế số 107-15/HĐKT-NT để cung cấp bê tông thương phẩm cho công trình “Nhà máy bê tông Thanh Tuấn” tại Long An. Thực hiện hợp đồng nguyên đơn đã giao tổng cộng 3.513,8m³ bê tông, trị giá 4.801.322.000 đồng. Bị đơn đã thanh toán 2.700.000.000 đồng, còn nợ 2.101.322.000 đồng. Nguyên đơn khởi kiện đòi Công ty TT thanh toán số tiền nợ gốc 2.101.322.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán

Quá trình giải quyết tại Tòa án, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố cho rằng trong số bê tông nguyên đơn giao có 918,5m³ không đạt chất lượng như đã thỏa thuận. Do đó, bị đơn không đồng ý trả số tiền nợ gốc, yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại do số bê tông không đạt chất lượng đã gây ra bao gồm chi phí tháo dỡ, xây dựng lại và thiệt hại kèm theo.

Bản án sơ thẩm số 13/2019/KDTM-ST, ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân Dân quận H tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bị đơn thanh toán tiền nợ gốc và lãi chậm thanh toán đến ngày xét xử sơ thẩm; Bác yêu cầu phản tố của bị đơn do không có căn cứ chứng minh thiệt hại.

Sau đó, bị đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án. Tòa án nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu đã đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và tuyên xử: Do cấp sơ thẩm chưa thực hiện giám định về số bê tông không đạt chất lượng cũng như những ảnh hưởng đến công trình do số bê tông không đạt chất lượng gây ra nếu có. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 13/2019/KDTM-ST ngày 30/10/2019 và giao hồ sơ về Tòa án nhân Dân Quận H để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Như vậy, vụ án trên là minh chứng cho thấy rõ những ảnh hưởng của việc thiếu quy định cụ thể về buộc xác nhận chất lượng hàng hóa tại thời điểm giao hàng.

Hay như Bản án số 01/2022/KDTM-PT của Toà án nhân Dân thành phố Hải Phòng xét xử vụ tranh chấp mua bán hàng hóa giữa Công ty ĐP (nguyên đơn) và Công ty MK (bị đơn) đã áp dụng Điều 34, 35 Luật Thương mại năm 2005 để kết luận bên bán vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng4. Cụ thể, theo hợp đồng các bên thỏa thuận về thời gian giao nhận hàng từ ngày ký hợp đồng đến hết ngày 31/12/2020, tuy nhiên các bên không

3 Bản án số 466/2020/KDTM-PT “V/v tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa” của Tòa án nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh

4 Bản án số 01/2022/KDTM-PT “V/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” của Toà án nhân Dân thành phố Hải Phòng

thỏa thuận với nhau về việc ấn định lịch giao hàng cụ thể. Tòa án phúc thẩm nhận định theo khoản 2 Điều 37 Luật Thương mại Công ty MK được quyền chủ động giao hàng cho Công ty ĐP và phải thông báo trước, tuy nhiên Công ty MK không thực hiện quyền của mình mà đợi Công ty ĐP yêu cầu giao hàng. Sau khi ký Hợp đồng, Công ty ĐP không có ý kiến thông báo cho Công ty MK biết thời điểm dự kiến lấy hàng và Công ty MK khi thu mua được gạo không có ý kiến thông báo cho Công ty ĐP biết việc đã thu mua được gạo và chuẩn bị giao hàng cho Công ty ĐP nên việc Công ty MK phải bán gạo không phải hoàn toàn do lỗi của Công ty ĐP mà là lỗi của 2 Công ty.

Sau đó, khi Công ty ĐP có yêu cầu giao 250 tấn gạo từ ngày 15/6/2020 đến ngày 30/6/2020, Công ty ĐP đã thông báo trước 23 ngày để Công ty MK chuẩn bị. Tuy nhiên, Công ty MK không tiến hành việc giao hàng mà có văn bản đề nghị xin chậm giao hàng và điều chỉnh giá, hỗ trợ vay vốn. Việc Công ty MK không tiến hành giao 250 tấn gạo là vi phạm nghĩa vụ giao hàng, do đó phải chịu chế tài xử lý vi phạm. Theo thỏa thuận tại khoản 4.2 Điều 4 của Hợp đồng, các bên thỏa thuận: “Nếu bên A không giao đủ hàng sẽ phải bồi thường cho bên B 20% giá trị hàng không giao đủ”. Tuy nhiên, căn cứ Điều 300 Luật thương mại Hội đồng xét xử nhận định mặc dù thỏa thuận giữa Công ty MKv à Công ty ĐP là bồi thường thiệt hại nhưng thực tế nội dung thỏa thuận về việc không thực hiện hợp đồng là sẽ phải chịu chế tài phạt vi phạm hợp đồng, Công ty MK đã không thực hiện nghĩa vụ của mình và không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm, ngoài ra Hợp đồng đã có thỏa thuận về trách nhiệm của bên A nếu không giao đủ hàng, do đó phải chịu chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Căn cứ Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 mức phạt vi phạm tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, do đó việc hai bên thỏa thuận mức phạt vi phạm 20% là vượt quá quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử Tòa án nhân Dân thành phố Hải Phòng đã tuyên buộc Công ty MK bồi thường cho ĐP do “không giao đủ hàng hóa theo hợp đồng” với số tiền 444.444.000 đồng.

Vụ án trên là minh chứng rõ nét cho những khoảng trống và bất cập trong quy định về địa điểm giao hàng, trách nhiệm giao hàng của bên bán cũng như cơ chế chế tài xử lý khi các bên vi phạm nghĩa vụ.

Bên cạnh các vụ án cụ thể, án lệ của TANDTC cũng cho thấy cách áp dụng pháp luật khi bên bán vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng. Trong Án lệ 09/2016/AL (Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân Dân Tối cáo) về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại. Theo Hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên có thỏa thuận phạt vi phạm 2% giá trị phần hàng không giao. Tòa án nhân Dân Tối cao xác nhận bên bán có trách nhiệm chịu phạt vi phạm 2% giá trị hàng không giao theo điều 300, 301 Luật Thương mại 2005 và không được tính lãi chậm trả trên số tiền phạt vi phạm này. Án lệ này đã khẳng định quan điểm xét xử của Tòa án về phạt vi phạm nghĩa vụ giao hàng, việc kết hợp giữa các chế tài xử lý vi phạm và cụ thể hóa cách áp dụng Điều 306 Luật Thương mại 2005 về mức lãi chậm thanh toán.

Qua việc phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, có thể khẳng định rằng những thiếu sót và bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành đã trở thành nguyên nhân cốt lõi dẫn đến nhiều tranh chấp không đáng có, gây ra những tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Các vụ án điển hình cùng với án lệ được viện dẫn đã minh họa rõ nét những lỗ hổng pháp lý trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng, đặc biệt liên quan đến chất lượng hàng hóa, trách nhiệm giao hàng, địa điểm và thời hạn giao hàng, cũng như cơ chế chế tài xử lý vi phạm.

Những bất cập trên không chỉ làm gia tăng số lượng tranh chấp mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của các chủ thể kinh doanh vào tính minh bạch và hiệu quả của pháp luật. Hệ quả là môi trường kinh doanh trở nên thiếu ổn định, gây cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải có sự sửa đổi và bổ sung các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là làm rõ các tiêu chí về chất lượng hàng hóa, trách nhiệm và thời hạn giao hàng, cũng như cơ chế chế tài xử lý vi phạm. Việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ giúp giảm thiểu tranh chấp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng, bài viết đề xuất một số giải pháp pháp lý sau:

Thứ nhất, cần bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ giao hàng của bên bán trong Luật Thương mại năm 2005 để tránh xảy ra các vi phạm về nghĩa vụ giao hàng do lỗi khách quan, cụ thể:

Đối với Điều 34 và Điều 40, cần bổ sung quy định bắt buộc các bên lập biên bản xác nhận bằng văn bản về số lượng và chất lượng hàng hóa tại thời điểm giao nhận. Quy định này giúp minh bạch trách nhiệm, tránh tranh chấp khi hàng hóa hư hỏng sau giao nhận do lỗi bảo quản của bên mua. Đồng thời, cần xác định rõ thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa đặc thù như thực phẩm, dược phẩm.

Đối với Điều 37, đề xuất quy định thời hạn cụ thể ví dụ như bên bán thông báo giao hàng trước 48 giờ, bên mua phản hồi trong 24 giờ; nếu không phản hồi, coi như đồng ý thời gian đề xuất. Điều này đảm bảo sự chủ động cho bên bán và thúc đẩy bên mua phối hợp kịp thời.

Đối với Điều 35, cần bổ sung mốc thời gian phải thông báo địa điểm giao hàng và thay đổi địa điểm kèm điều khoản gia hạn thời gian giao nếu địa điểm xa. Quy định này giúp bên bán sắp xếp vận chuyển hiệu quả, giảm rủi ro giao trễ.

Đối với Điều 42, đề xuất quy định thời hạn mà bên mua phải cung cấp địa điểm giao chứng từ, xác nhận qua văn bản hoặc email, nhằm đảm bảo chứng từ được giao đúng nơi, đúng lúc, đặc biệt trong giao dịch quốc tế.

Về phương thức giao nhận, cần ban hành điều khoản quy định cụ thể các phương thức phổ biến – như giao trực tiếp, qua đơn vị vận chuyển, giao nhiều lần, hay qua sàn thương mại điện tử – làm cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp thỏa thuận, giảm thiểu lúng túng và tranh chấp.

Thứ hai, cần điều chỉnh quy định về mức phạt vi phạm

Để đảm bảo quyền tự do thỏa thuận và phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại nên xem xét điều chỉnh hoặc bãi bỏ mức giới hạn phạt vi phạm là 8% giá trị phần vi phạm hiện nay, cho phép các bên thỏa thuận linh hoạt hơn, trao cho các bên không gian rộng hơn trong việc quy định chế tài phù hợp với tính chất, quy mô giao dịch.

Thứ ba, cần khắc phục sự chồng chéo giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự:

Luật Thương mại năm 2005 cần được xác định lại vai trò là luật chuyên ngành, tránh lặp với quy định chung trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, Luật Thương mại nên tập trung vào các quy định đặc thù của hoạt động thương mại, còn các quy định chung về mua bán (giao hàng, chuyển rủi ro, quyền sở hữu, tranh chấp) được áp dụng theo Bộ luật Dân sự nếu Luật Thương mại không có quy định riêng. Như vậy, sẽ giảm được tình trạng mâu thuẫn, áp dụng đồng thời hai văn bản, cũng tạo thuận lợi cho việc đồng bộ hóa với các hiệp định quốc tế và quy định chuyên ngành.

Thứ tư, cụ thể hóa quy định về chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro:

Luật Thương mại hiện quy định thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa ngay khi giao hàng (Điều 62), chuyển rủi ro từ Điều 57 đến Điều 61. Nhưng cần bổ sung các trường hợp đặc thù như mua trả góp, mua thử, hàng hóa đòi đăng ký quyền sở hữu… để phù hợp với thực tế kinh doanh. Đặc biệt, nhằm hội nhập với Công ước LHQ về hợp đồng mua bán quốc tế 1980 (CISG), có ý kiến đề xuất cho phép bên mua được yêu cầu giảm giá bán nếu bên mua chấp nhận không từ chối nhận hàng không phù hợp với hợp đồng. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi người mua cũng như người bán khi bên bán giao hàng hóa có khuyết tật nhỏ mà hai bên đã thỏa thuận về việc nhận hàng. Đồng thời, cần làm rõ chuyển quyền sở hữu trong các trường hợp như “hàng đang trên đường” hay bên mua mới thanh toán một phần, để tránh tranh cãi pháp lý khi xảy ra mất mát hoặc tranh chấp.5

Thứ năm, bổ sung quy định về hình thức và chứng từ điện tử:

Thực tiễn thương mại hiện nay sử dụng rộng rãi hợp đồng và chứng từ điện tử. Luật cần bổ sung quy định cụ thể về giao nhận chứng từ điện tử, chữ ký số, và bảo vệ thông tin giao nhận hàng trực tuyến, đảm bảo an toàn giao dịch cho thương nhân. Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có các quy định chung về giao dịch điện tử, nhưng một số điều khoản liên quan hợp đồng mua bán trong Luật Thương mại nên được cập nhật để bắt kịp xu hướng.

5.Cao Thanh Huyền, “Một số giải pháp hoàn thiện Luật Thương mại năm 2005 trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam”, https://byvn.net/ZJFL , truy cập ngày 27/6/2025

Thứ sáu, tăng cường hướng dẫn thi hành và đào tạo thực tiễn:

Song song với sửa đổi luật, Cơ quan quản lý nhà nước nên ban hành hướng dẫn chi tiết cho các quy định còn chung chung (ví dụ về “khoảng thời hạn hợp lý”, “hàng bị hủy do lỗi của bên bán”). Bổ sung án lệ và phổ biến các vụ án tiêu biểu cũng giúp các bên tham gia hiểu rõ hơn về quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Tăng cường hơn nữa sự phổ biến các quy định của pháp luật liên quan đến nghĩa vụ giao hàng cũng như nghĩa vụ đối ứng của bên mua hàng thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm với các Doanh nghiệp. Từ đó, làm tăng cường nhận thức của các Doanh nghiệp về nghĩa vụ của mình trong Hợp đồng mua bán hàng hóa.

Những kiến nghị trên nhằm bảo đảm hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa được hoàn thiện, minh bạch hơn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại và các tiêu chuẩn quốc tế.

Kết luận

Bài viết khái quát và phân tích toàn diện nghĩa vụ giao hàng của bên bán và nghĩa đối ứng của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Các quy định pháp luật hiện hành đã xây dựng khung pháp lý cơ bản bảo vệ quyền lợi giữa các bên; tuy nhiên, qua phân tích vụ án thực tiễn và án lệ, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại một số bất cập, như những lỗ hổng trong quy định của Luật Thương mại năm 2005 cũng như sự chồng chéo quy phạm giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự hoặc giới hạn mức phạt vi phạm chưa tương thích với thực tiễn. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, theo hướng cụ thể hóa tiêu chí giao nhận, điều chỉnh cơ chế chế tài linh hoạt hơn và cập nhật xu hướng giao dịch mới, là rất cần thiết để cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo công bằng, hiệu quả trong giao dịch thương mại.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Bộ Chính trị (2005), Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW.
- Đinh Thị Thanh Huyền (2007), Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.
- Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015.
- Quốc hội (2005), Luật thương mại 2005 sửa đổi, bộ sung năm 2017, 2019.
- Bộ luật dân sự Pháp
- Nguyễn Quốc Trưởng (2019), Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng thương mại, Tạp chí Tòa án.
- Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, “Kết hợp phạt vi phạm hợp đồng và lãi chậm trả tiền”, https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/055-%7C-ket-hop-phat-vi-pham- hop-dong-va-lai-cham-tra-tien-a198.html, truy cập ngày 27/6/2025
A%ADt%20chuy%C3%AAn%20ng%C3%A0nh, truy cập ngày 27/6/2025

 

Luật sư, ThS LÊ KIÊN LƯƠNG

Giám đốc Công ty Luật TNHH MTV Thiên Hương

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Video
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây