Từ ngày 01/01/2026, “tài sản số” được công nhận và quản lý như thế nào?

Thứ năm - 14/08/2025 08:41
Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 (Luật CNCNS 2025) có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, lần đầu tiên định nghĩa và phân loại “tài sản số” trong pháp luật Việt Nam, đồng thời đặt ra cơ chế quản lý, điều kiện kinh doanh với một số dịch vụ liên quan. Đây là hành lang pháp lý để doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khi giao dịch, bảo đảm, góp vốn, thừa kế các dạng tài sản tồn tại dưới dạng dữ liệu số.

Về khái niệm và phạm vi “tài sản số” đã được luật hóa

Định nghĩa lần đầu trong luật chuyên ngành. Luật CNCNS 2025 xác định: Tài sản số là tài sản theo Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử. Cách tiếp cận này “gắn” tài sản số với khung chung của Bộ luật Dân sự (BLDS) về tài sản, giúp kết nối tới các chế định như sở hữu, định đoạt, bảo đảm, thừa kế.

Luật chia tài sản số thành: (i) tài sản ảo trên môi trường điện tử (có thể dùng để trao đổi hoặc đầu tư); (ii) tài sản mã hóa (xác thực bằng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ tương tự trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao); và (iii) tài sản số khác; không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và các tài sản tài chính khác theo pháp luật dân sự – tài chính; nhóm (iii) sẽ do Chính phủ hướng dẫn chi tiết để phù hợp thực tiễn.

Trước khi có Luật CNCNS 2025, các tranh luận về “tài sản số” chủ yếu dựa vào Điều 105 BLDS 2015 (tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản) và các quy định về quyền đối với tài sản vô hình. Từ 2026, các dạng tài sản tồn tại dưới dạng dữ liệu số có điểm tựa pháp lý chuyên ngành để tiếp cận thống nhất hơn khi định giá, ghi nhận sổ sách, giao dịch và giải quyết tranh chấp.

z6902848081234 41a6a454ab3485c343681148353eb2e7

Luật gia Thái Anh Quân chia sẻ tại Hội thảo về giao dịch điện tử, tài sản số

Thẩm quyền và nội dung quản lý của nhà nước

Luật quy định Nhà nước quản lý các vấn đề cốt lõi liên quan tài sản số, gồm: tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu; quyền và nghĩa vụ của các bên; an toàn, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; và điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ tài sản mã hóa. Đây là khung “xương sống” để sau đó Chính phủ ban hành nghị định chi tiết hóa quy trình, tiêu chí kỹ thuật và thủ tục.

Chính phủ ban hành các quy định cụ thể về quản lý, tiêu chí phân loại và điều kiện kinh doanh đối với một số dịch vụ liên quan tài sản số, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trước sự thay đổi nhanh của công nghệ và thị trường. Doanh nghiệp cần theo dõi các nghị định, thông tư sắp ban hành để cập nhật kịp thời.

Khi luật đã xác lập khái niệm và phạm vi, các cơ quan quản lý sẽ có cơ sở để: “ban hành chuẩn mực kỹ thuật/xác thực; thiết lập cơ chế đăng ký/giám sát một số hoạt động kinh doanh; phối hợp thực thi với các luật liên quan (giao dịch điện tử, dân sự, viễn thông, an ninh mạng, phòng chống rửa tiền…).

Trên thực tiễn hiện nay, các giao dịch tài sản số vẫn đang diễn ra trên môi trường điện tử, vì vậy giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử, dấu thời gian và dịch vụ tin cậy là thiết yếu để bảo toàn giá trị tài sản và chứng cứ khi tranh chấp.

Trước khi có Luật CNCNS 2025  thì Luật Giao dịch điện tử 2023 (hiệu lực 01/7/2024) đã đưa ra các chế định pháp lý của giao dịch thực hiện bằng phương tiện điện tử, tạo nền tảng cho hợp đồng, thỏa thuận, thông báo… ở dạng số; Nghị định 23/2025/NĐ-CP quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy (hiệu lực 10/4/2025) cung cấp bộ khung vận hành cho việc ký kết, niêm phong điện tử, đóng dấu thời gian, lưu trữ chứng cứ điện tử trong giao dịch. Doanh nghiệp giao dịch, chuyển nhượng, góp vốn bằng tài sản số nên chuẩn hóa toàn bộ quy trình theo nghị định này.

Về phương tiện thanh toán: không “hợp pháp hóa” tiền ảo

Luật CNCNS 2025 có những quy định cụ thể về “công nhận tài sản số nhưng không biến tiền ảo thành phương tiện thanh toán hợp pháp”. Vì vậy, theo quy định pháp luật thì Bitcoin và các loại “tiền ảo” tương tự không phải là tiền tệ, không phải phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam; việc phát hành, cung ứng, sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Vì vậy, “tài sản mã hóa” trong Luật cần được hiểu là “một loại tài sản số” của các đối tượng giao dịch, đầu tư… khác với tiền pháp định.

blockchain tai san so 09562506

Trước – Sau ngày 01/01/2026 - một số tình huống điển hình (tham khảo)

Bán – chuyển nhượng tài sản ảo (ví dụ: vật phẩm số trong game/nền tảng)

  • Trước 2026: Không có định nghĩa chuyên biệt trong luật; các bên chủ yếu dựa vào BLDS (tài sản/quyền tài sản) và điều khoản hợp đồng/nội quy nền tảng; dễ phát sinh tranh luận về tính chất tài sản, căn cứ quyền sở hữu và xác thực giao dịch.
     
  • Sau 2026: Có thể dẫn chiếu khái niệm “tài sản số” và “tài sản ảo” trong Luật CNCNS 2025; giao dịch nên được ký điện tử kèm dấu thời gian, lưu trữ chứng cứ điện tử theo Luật Giao dịch điện tử 2023 và Nghị định 23/2025. Điều này giúp làm rõ chủ thể quyền, chuỗi chuyển giao và tính xác thực của tài sản ảo.

 Góp vốn bằng tài sản mã hóa vào công ty

  • Trước 2026: Thiếu khung chuyên ngành; việc ghi nhận góp vốn bằng các tài sản tồn tại dưới dạng dữ liệu số có thể bị thận trọng vì rủi ro xác thực/định giá.
     
  • Sau 2026: Luật CNCNS 2025 thừa nhận tài sản mã hóa là một loại tài sản số (không phải chứng khoán/tiền pháp định), tạo cấu trúc pháp lý thuận lợi hơn để định giá, ghi nhận kế toán và xử lý bảo đảm (tùy hướng dẫn chi tiết). Tuy nhiên, tuyệt đối không được sử dụng token/coin làm phương tiện thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ thường nhật.

Thế chấp tài sản số

  • Trước 2026: Cơ sở chủ yếu là BLDS về quyền tài sản và thỏa thuận; khó thống nhất về cơ chế mô tả – định danh tài sản vô hình dạng số và chuẩn xác thực.
     
  • Sau 2026: Khả năng thiết kế mô tả tài sản theo tiêu chí kỹ thuật (định danh, băm/“hash”, chỉ mục, nhật ký thay đổi) phù hợp định nghĩa tài sản số; đi kèm dịch vụ tin cậy (niêm phong, dấu thời gian) để nâng cao giá trị chứng cứ khi xử lý bảo đảm. Doanh nghiệp cần chờ nghị định hướng dẫn về chuẩn kỹ thuật/định mức.

Sàn cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa

  • Trước 2026: Chưa có điều kiện kinh doanh chuyên biệt; rủi ro pháp lý cao khi triển khai dịch vụ có yếu tố “mã hóa/chain”.
     
  • Sau 2026: Luật nêu “điều kiện kinh doanh đối với cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa” thuộc nội dung quản lý; dự kiến Chính phủ sẽ quy định chi tiết về điều kiện, tiêu chuẩn an toàn, phòng chống rửa tiền, an ninh mạng, minh bạch thông tin, quy trình giám sát/kiểm tra. Đây là cửa ngõ pháp lý để các nền tảng hợp thức hóa hoạt động, nhưng đồng thời cũng đặt yêu cầu tuân thủ cao.

Doanh nghiệp, cá nhân quan tâm tới "tài sản số" cần làm gì ngay bây giờ?

1) Lập “Danh mục tài sản số” và chuẩn hóa định danh.

  • Rà soát các tài sản đang nắm giữ: tài sản ảotài sản mã hóatài sản số khác (ví dụ: bộ dữ liệu, phần mềm, nội dung số, tài khoản định danh…).
  • Xây dựng bộ tiêu chí định danh theo hướng kỹ thuật: tên/phiên bản, mô tả chức năng, định danh duy nhất (ID), hash, metadata, lịch sử thay đổi, quyền khai thác… để phù hợp định nghĩa tại Luật CNCNS 2025.

2) Chuẩn bị cơ chế định giá – ghi nhận kế toán.

  • Tạm thời vận dụng khung BLDS về quyền tài sản, cùng chuẩn kế toán hiện hành; thiết lập quy trình thẩm định nội bộ (chất lượng, tính độc quyền, khả năng khai thác, rủi ro pháp lý).
     
  • Theo dõi nghị định/thông tư sẽ hướng dẫn phân loại, tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện kinh doanh — đây là căn cứ để hoàn thiện chính sách kế toán và định giá nội bộ.

3) Chuẩn hóa “niềm tin số” cho mọi giao dịch.

  • Áp dụng Luật Giao dịch điện tử 2023 và Nghị định 23/2025: bắt buộc ký điện tử (đủ điều kiện), đóng dấu thời gian, niêm phong điện tử, lưu trữ chứng cứ điện tử theo quy trình.
     
  • Soạn điều khoản chứng cứ điện tử trong hợp đồng (e-Evidence), quy định rõ cơ chế xác thực, nhật ký giao dịch, địa điểm lưu trữ, thời hạn lưu trữ.

4) Kiểm soát rủi ro pháp lý về thanh toán.

  • Quán triệt chính sách không sử dụng “tiền ảo/crypto” như phương tiện thanh toán trong mọi quy trình nghiệp vụ; chỉ sử dụng đồng tiền pháp định hoặc phương thức thanh toán được pháp luật thừa nhận.
     
  • Đào tạo nhân sự/frontline để tránh cấu trúc giao dịch có thể bị coi là thanh toán bằng tiền ảo trá hình.

5) Trang bị “lá chắn tuân thủ” về an ninh, chống rửa tiền.

  • Dù còn chờ nghị định chi tiết, doanh nghiệp nên sớm thiết lập khung KYC/KYT, cảnh báo giao dịch đáng ngờ, phân quyền truy cập tài sản số, cơ chế khóa/giải khóa theo vai trò, ghi vết đầy đủ cho kiểm toán/điều tra.
  • Thiết kế quy trình ứng phó sự cố (mất mát/biến dạng dữ liệu tài sản, truy cập trái phép), gắn với trách nhiệm hợp đồng của đối tác hạ tầng và nhà thầu liên quan. (Căn cứ định hướng tại nội dung quản lý tài sản số gồm phòng, chống rửa tiền; an ninh, an toàn mạng).

6) Rà soát điều lệ, hợp đồng, quy chế nội bộ.

  • Bổ sung khái niệm “tài sản số” và cơ chế phê duyệt, định giá, chuyển nhượng, góp vốn đối với tài sản số vào điều lệ/quy chế.
     
  • Chuẩn hóa ma trận quyền hạn khi tạo lập – phát hành – chuyển giao – hủy bỏ tài sản số; cơ chế phê duyệt đa chữ ký; trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại.

Những câu hỏi còn mở cần đợi văn bản hướng dẫn

  • Chuẩn định danh/định lượng kỹ thuật đối với từng loại tài sản số (chuẩn hash, metadata bắt buộc, nhật ký giao dịch tối thiểu, phân loại rủi ro…) để thống nhất áp dụng khi thế chấp, góp vốn, chuyển nhượng. (Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết).
     
  • Chuẩn định giá/ghi nhận kế toán đối với tài sản số (đặc biệt là tài sản ảo, tài sản mã hóa) để giảm khác biệt giữa doanh nghiệp – kiểm toán – cơ quan quản lý.
     
  • Điều kiện kinh doanh cho dịch vụ tài sản mã hóa (vốn tối thiểu, yêu cầu bảo đảm an toàn hệ thống, quy trình AML/CFT, nghĩa vụ báo cáo…).

Như vậySau ngày 01/01/2026, Việt Nam chính thức công nhận và quản lý tài sản số bằng một đạo luật chuyên ngành là Luật công nghiệp công nghệ số 2025, trong d0o1 nêu rõ các Khái niệm – phân loại – trục quản lý đã được định hình, mở đường cho định giá – giao dịch – bảo đảm – góp vốn – thừa kế các tài sản tồn tại dưới dạng dữ liệu số. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần chủ động chuẩn hóa “niềm tin số” cho mọi giao dịch (ký điện tử, dấu thời gian, lưu trữ chứng cứ), tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc “không dùng tiền ảo làm phương tiện thanh toán”, và chuẩn bị hồ sơ điều kiện kinh doanh nếu cung cấp dịch vụ liên quan. Giai đoạn tiếp theo (qua nghị định/thông tư) sẽ quyết định tốc độ mở cửa thị trường nhưng mức độ tuân thủ ngay từ bây giờ sẽ là lợi thế cạnh tranh bền vững.

Tài liệu tham khảo
  • Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 (số 71/2025/QH15), Chương V “Tài sản số” – định nghĩa (Điều 46), phân loại (Điều 47), nội dung quản lý (Điều 48); hiệu lực từ 01/01/2026.
  • Bộ luật Dân sự 2015 – Điều 105 (tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản), làm nền cho giao dịch dân sự liên quan tài sản số
  • Luật Giao dịch điện tử 2023 (số 20/2023/QH15), hiệu lực 01/7/2024 – giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu/giao dịch điện tử.
  • Nghị định 23/2025/NĐ-CP (hiệu lực 10/4/2025) về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy – khung vận hành cho ký kết, dấu thời gian, niêm phong, lưu trữ chứng cứ điện tử.
  • Lập trường về “tiền ảo” không phải phương tiện thanh toán hợp pháp (tổng hợp quy định, hướng dẫn của cơ quan nhà nước, tra cứu Thư viện Pháp luật/SBV).

 

 Luật gia THÁI ANH QUÂN

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Video
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây