“Chồng tôi có chuyển khoản qua ngân hàng số tiền đặt cọc mua nhà là 300 triệu đồng cho anh B. nhưng chưa kịp làm giấy thoả thuận hay hợp đồng (vì chồng tôi đang đi công tác xa mà anh ấy là đồng nghiệp cùng cơ quan đang cần tiền gấp giải quyết việc riêng, có thỏa thuận miệng sau khi chồng tôi về thì làm hợp đồng luôn). Nhưng không ngờ hai ngày sau thì anh bạn đồng nghiệp bị đột quỵ và mất đột ngột. Xin hỏi, vợ và các con anh ấy có nghĩa vụ trả lại cho chồng tôi số tiền ấy như thế nào? Chúng tôi chỉ có bằng chứng là giấy chuyển tiền vào tài khoản mang tên anh ấy, ngân hàng cũng có xác nhận. Giữa chồng tôi và anh ấy có thương lượng qua lại vấn đề giá cả và tiền bạc bằng điện thoại nhưng vì sơ suất nên mất hết tin nhắn cũ. Đã 6 tháng sau khi anh ấy qua đời nhưng gia đình anh ấy lại luôn tìm cách tránh gặp mặt chồng tôi với lý do là vợ anh ấy nói không biết gì hết. Vợ chồng tôi phải làm thế nào?”.
Trả lời mang tính tham khảo:
Mặc dù giữa chồng bạn và người bạn đồng nghiệp đã thỏa thuận qua lại về việc mua bán nhà nhưng chưa ký kết bất kỳ văn bản, giấy tờ nào, đồng thời, chồng của bạn cũng không đưa ra được bằng chứng nào về việc mua bán này nên giữa hai người chưa thể xem là đã giao kết hợp đồng mua bán nhà ở. Vì vậy, vợ và các con của người này sẽ không có nghĩa vụ thực hiện tiếp thỏa thuận mua bán nhà ở với vợ chồng bạn.
Về số tiền mà chồng bạn đã chuyển cho người bạn đồng nghiệp, có giấy chuyển tiền và xác nhận của Ngân hàng: Vợ chồng bạn có thể xuất trình các chứng cứ này để yêu cầu những người thừa kế của anh ấy thực hiện nghĩa vụ của người đã khuất để lại theo quy định tại Điều 637 Bộ luật Dân sự như sau: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, những người thừa kế của anh bạn đồng nghiệp đã qua đời (Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự thì hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết) có nghĩa vụ trả lại số tiền mà anh ấy đã nhận của vợ chồng bạn trong phạm vi di sản do người này để lại.
Trong trường hợp không thể thương lượng, thỏa thuận được thì vợ chồng bạn có quyền khởi kiện tới Tòa án có thẩm quyền để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi khởi kiện, bạn phải làm đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính theo quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn