Hòa giải là một phương thức giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội rất hiệu quả. Có nhiều hình thức hòa giải khác nhau, thông thường được chia làm hai loại: hòa giải trước tố tụng và hòa giải trong tố tụng. Hệ thống pháp luật về hòa giải tranh chấp trước tố tụng ở nước ta hiện nay tương đối đầy đủ và bao trùm các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Pháp luật về hòa giải trước tố tụng hiện nay gồm: Hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất, hòa giải tranh chấp lao động, hòa giải thương mại, hòa giải tranh chấp, mâu thuẫn về hôn nhân và gia đình, hòa giải theo quy định của pháp luật hình sự.
I. HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1. Khái niệm
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở.
2. Cơ sở pháp lý
Hòa giải ở cơ sở được điều chỉnh bởi Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hòa giải ở cơ sở, Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
3. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở quy định hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
- Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải[1];
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính;
- Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.
Nhằm cụ thể và quy định chi tiết phạm vi hòa giải ở cơ sở, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở (Nghị định số 15/2014/NĐ-CP) quy định các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật được tiến hành hòa giải ở cơ sở gồm:
- Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính;
- Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây:
Không bị khởi tố vụ án theo quy định tại 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 /9/2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật xử lý vi phạm hành chính;
- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
4. Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
Hoạt động hòa giải ở cơ sở do hòa giải viên thực hiện. Hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và phải có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư; có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật. Hòa giải viên ở cơ sở do các hộ gia đình ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố bầu bằng một trong các hình thức: (a) Biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình; (b) Phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình. Việc bầu hòa giải viên ở cơ sở do Ban công tác Mặt trận thực hiện. Trên cơ sở kết quả bầu hòa giải viên ở cơ sở, Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách người được đề nghị công nhận là hòa giải viên (gồm những người có kết quả bầu hòa giải viên đạt trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý) gửi cho Chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định công nhận[2].
Hòa giải viên ở cơ sở hoạt động mang tính chất xã hội, vì cộng đồng, hướng đến những giá trị nhân đạo; để khuyến khích, hỗ trợ cho hòa giải viên ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sơ quy định hòa giải viên ở cơ sở được hưởng thù lao theo vụ, việc khi thực hiện hoạt động hòa giải[3] và được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải; được cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động hòa giải.
Tổ chức hoạt động của hòa giải viên ở cơ sở là tổ hòa giải. Đây là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở để hoạt động hòa giải. Tổ hòa giải có tổ trưởng và các hòa giải viên. Mỗi tổ hòa giải có từ 03 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, tổ hòa giải phải có hòa giải viên là người dân tộc thiểu số.
5. Căn cứ để tiến hành hòa giải ở cơ sở
- Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải;
- Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải;
- Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên. Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
7. Các bước tiến hành hòa giải
Với bản chất là hoạt động tự nguyện, tự quản tại cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ ở đã không quy định bắt buộc về trình tự, thủ tục hòa giải mà tùy thuộc đối tượng, tính chất vụ, việc, điều kiện, hoàn cảnh và quan hệ gia đình, xã hội của các bên tranh chấp mà hòa giải viên áp dụng biện pháp, cách thức hòa giải phù hợp để giải thích, động viên các bên, hướng các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp.
8. Thi hành thỏa thuận hòa giải thành
Một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của hoạt động hòa giải ở cơ sở là nguyên tắc tự nguyện. Nguyên tắc này được áp dụng xuyên suốt trong quá trình hòa giải từ khi phát sinh mâu thuẫn tranh chấp cho đến khi kết thúc giải quyết vụ việc (hòa giải thành hoặc không thành) và các bên tự nguyện thực hiện những cam kết, thỏa thuận đó. Vì là “tự nguyện thực hiện” nên các bên có quyền thực hiện hoặc không thực hiện thỏa thuận hòa giải thành. Trên thực tế từng có trường hợp sau khi các bên tranh chấp đã được hòa giải thành nhưng không thực hiện cam kết, thỏa thuận đã gây không ít khó khăn cho công tác hòa giải. Nhiều hòa giải viên ở cơ sở đã từng chia sẻ rằng: “có cảm giác như đã làm một việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, một việc “công cốc”, một việc tốn công sức, tiền của thời gian mà không mang lại kết quả nào”, và điều này ít nhiều đã làm ảnh hưởng đến lòng nhiệt tình của người hòa giải, mất dần ý nghĩa, vai trò của công tác hòa giải ở cơ sở.
Trước tình hình đó, để đảm bảo hiệu quả cho công tác hòa giải ở cơ sở, đảm bảo các cam kết thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành của các bên tranh chấp được thực thi trên thực tế, Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Theo đó, áp dụng quy định tại Chương 33 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành 01/7/2016) về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”
Theo hướng dẫn, việc công nhận kết quả hòa giải thành phải đáp ứng đủ 5 điều kiện: (1) Các bên tham gia thỏa thuận phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; (2) Vụ việc được hòa giải phải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở; (3) Các bên tham gia thỏa thuận phải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; (4) Có văn bản hòa giải thành. Nội dung hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm chốn tránh nghĩa vụ với nhà nước hoặc người thứ ba; (5) Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công nhận là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc. Quyết định công nhận hay không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, qua theo dõi, thống kê hiện nay, rất ít trường hợp có nhu cầu đề nghị Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
9. Kết quả tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
Luật Hòa giải ở cơ sở được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2013, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014. Qua 06 năm triển khai thi hành, Luật đã tác động tích cực đến đời sống xã hội.
- Về tổ chức: Thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, tính đến ngày 31/12/2019, cả nước có 96.896 tổ hòa giải được thành lập tại thôn, tổ dân phố với 601.312 hòa giải viên[4]. Các hòa giải viên đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt, sống gương mẫu, có uy tín, có khả năng vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành pháp luật, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình tham gia công tác hòa giải ở cơ sở, được bầu chọn công khai, dân chủ trong cộng đồng và có quyết định công nhận của chính quyền cơ sở.
- Về kết quả hòa giải ở cơ sở: Trong 06 năm (từ năm 2014 đến năm 2019) các tổ hòa giải ở cơ sở trên cả nước đã tiếp nhận 843.355 vụ, việc, trong đó đã tiến hành hòa giải 814.557 vụ, việc; hòa giải thành 665.973 vụ, việc (đạt tỷ lệ 81,7%); hòa giải không thành 147.553 vụ. việc[5]. Công tác hòa giải ở cơ sở đạt hiệu quả cao, tỷ lệ hòa giải thành đạt cao, năm sau cao hơn năm trước[6]. Đây chính là kết quả làm việc tận tâm, nhiệt tình, không ngại khó khăn, vất vả của đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở.
Việc kịp thời hòa giải những tranh chấp, bất đồng ngay từ khi mới phát sinh trong cộng đồng dân cư đã giải quyết dứt điểm mâu thuẫn, tranh chấp, xóa bỏ bất đồng, hận thù với nhau; không để tranh chấp kéo dài, khó xử lý và không dẫn đến tình trạng khiếu kiện ra cơ quan nhà nước, khiếu kiện vượt cấp; từ đó góp phần giữ gìn an toàn chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng bền vững, xây dựng khu dân cư văn hóa, sống hòa thuận, hạnh phúc, yên vui, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ngoài ra, kết quả hòa giải ở cơ sở có ý nghĩa rất lớn đối với việc tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc của nhân dân và nhà nước. Nếu như 100.000 vụ, việc hòa giải thành ở cơ sở mỗi năm đưa ra Tòa án giải quyết thì số tiền tối thiểu người dân phải bỏ ra để đóng lệ phí, án phí cho yêu cầu giải quyết việc dân sự là 33.000.000.000 đồng/năm (lệ phí nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, lệ phí giải quyết việc dân sự và án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình không có giá ngạch là 300.000 đồng)[7]. Đồng thời người dân còn mất thời gian đi đến Tòa án theo giấy triệu tập của Tòa, dẫn đến công việc bị ảnh hưởng, thu nhập bị giảm sút. Công tác hòa giải ở cơ sở còn giảm tải công việc cho các cơ quan tư pháp, nhất là ngành Tòa án, góp phần không làm tăng biên chế ngành Tòa án và chi tiêu cho ngân sách nhà nước để giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp này.
Hoạt động hòa giải ở cơ sở cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư. Khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên phải vận dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn các bên tranh chấp, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó xử sự phù hợp với quy định pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội.
Bên cạnh những kết quả quan trọng mà công tác Hòa giải ở cơ sở đã đạt được thời gian qua, vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn, cần được tháo gỡ kịp thời như: một số quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa thực sự phù hợp, khó thực hiện (như quy định về bầu hòa giải viên, quy định về ngân sách Trung ương hỗ trợ cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách) hay chưa có cơ chế, chính sách tốt để huy động người dân, nhất là những người có uy tín, trình độ, am hiểu kiến thức pháp luật tham gia hòa giải; đội ngũ hòa giải viên tuy đông nhưng còn hạn chế về trình độ học vấn và trình độ hiểu biết pháp luật để hòa giải các vụ việc phức tạp; nguồn lực đầu tư cho hoạt động này chưa được quan tâm tương xứng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, việc huy động các nguồn lực khác ngoài kinh phí ngân sách nhà nước để thực hiện còn chưa được chú trọng…
II. HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
Hòa giải thương mại cùng với thương lượng, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế[8] đã có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới, đặc biệt tại quốc gia có nền kinh tế phát triển và được các cá nhân, tổ chức kinh tế ưa chuộng do những ưu điểm vượt trội của phương thức này so với tố tụng tòa án.[9] Ở Việt Nam, phương thức hòa giải đã được ghi nhận mang tính nguyên tắc trong các văn bản luật, dưới luật cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.[10] Đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Đây là chủ trương quan trọng làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, trong đó có hòa giải thương mại.
Thực hiện Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, Bộ Tư pháp được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ Nghị định về Hòa giải thương mại. Ngày 26/2/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại có hiệu lực từ ngày 15/4/2017 (sau đây là Nghị định).
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP là văn bản duy nhất điều chỉnh phương thức hòa giải thương mại bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
Tương tự như phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, Điều 2 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại hoặc tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại.
Điều kiện tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thoả thuận hòa giải. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp.
Điều 7 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định các tiêu chuẩn của hòa giải viên thương mại như có năng lực hành vi dân sự, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên, có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, hiểu biết tập quán kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực liên quan. Hòa giải viên thương mại bao gồm hòa giải viên thương mại vụ việc và hòa giải viên thương mại của tổ chức hòa giải thương mại.
Tổ chức hòa giải thương mại bao gồm Trung tâm hòa giải thương mại và Trung tâm trọng tài có cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại. Các Trung tâm hòa giải thương mại chính thực hoạt động sau khi được Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập và đăng ký tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Trung tâm đặt trụ sở.
Trình tự, thủ tục hòa giải thương mại về cơ bản được xây dựng trên cơ sở tham khảo Luật mẫu về hòa giải thương mại của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế (UNCITRAL).
Theo Điều 14, Điều 17 Nghị định 22/2017/NĐ-CP thì khi tham gia hòa giải, các bên có các quyền, nghĩa vụ như lựa chọn hòa giải viên thương mại, trình tự, thủ tục hòa giải, địa điểm, thời gian để tiến hành hòa giải, yêu cầu tạm dừng hoặc chấm dứt hòa giải, được bày tỏ ý chí và quyết định về nội dung giải quyết hòa giải, có nghĩa vụ trình bày đúng sự thật, các tình tiết của tranh chấp, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp theo đề nghị của hòa giải viên thương mại, thi hành thỏa thuận hòa giải thành, tôn trọng hòa giải viên thương mại, các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các bên có quyền lựa chọn quy tắc hòa giải của tổ chức hòa giải thương mại làm phương thức tiến hành hòa giải hoặc tự thỏa thuận phương thức tiến hành hòa giải. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phương thức tiến hành hòa giải thì hòa giải viên tiến hành thủ tục hòa giải theo phương thức mà hòa giải viên thương mại thấy phù hợp với tình tiết vụ việc, nguyện vọng của các bên và được các bên chấp thuận.
Trường hợp các bên đạt được thỏa thuận về việc giải quyết một phần hoặc toàn bộ tranh chấp thì các bên tiến hành ký kết thỏa thuận hòa giải thành có các nội dung chính như căn cứ tiến hành hòa giải, thông tin cơ bản về các bên, nội dung chủ yếu của vụ việc, thỏa thuận đạt được và giải pháp theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật. Văn bản về kết quả hòa giải thành có hiệu lực thi hành đối với các bên theo quy định của pháp luật dân sự. Việc công nhận kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra, Điều 15 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định trong trường hợp hòa giải không thành các bên có quyền yêu cầu trọng tài hoặc tòa án giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
6. Về kết quả hòa giải thương mại
Sau khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại được ban hành hành, Bộ Tư pháp đã chủ động ban hành Quyết định số 944/QĐ-BTP ngày 3/7/2017 ban hành kế hoạch triển khai Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, Công văn số 2147/BTP-BTTP ngày 26/6/2017 về việc triển khai Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Quyết định số 500/QĐ-BTP ngày 26/3/2018 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành trong lĩnh vực hòa giải thương mại thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Thông tư 02/2018/TT-BTP ngày 26/2/2018 ban hành và hướng dẫn sử dụng một số biểu mẫu về tổ chức và hoạt động hòa giải thương mại có hiệu lực từ ngày 20/4/2018.
Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ, ngành tổ chức Hội nghị để tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các nội dung của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đến các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp trong phạm vi cả nước.
Tại địa phương, hoạt động triển khai thi hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP cũng đã được quan tâm thực hiện. Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tích cực, chủ động tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai; tổ chức tuyên truyền, phổ biến dưới nhiều hình thức về mục đích, ý nghĩa của việc ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, về vai trò, tính hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, quán triệt nội dung cơ bản của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP tới các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp ở địa phương, đội ngũ hòa giải viên hương mại, trọng tài viên, luật sư, báo cáo viên pháp luật.
Tính đến nay, cả nước đã có 07 Trung tâm hòa giải thương mại được Bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập, 03 Trung tâm trọng tài được bổ sung chức năng hòa giải thương mại, chủ yếu là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và gần 100 hòa giải viên thương mại vụ việc đã đăng ký tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên cho tới nay, chưa có số liệu báo cáo về vụ việc tranh chấp thương mại được giải quyết theo phương thức hòa giải thương mại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, hoạt động hòa giải thương mại vẫn còn một số hạn chế, bất cập như:
Thứ nhất, hoạt động hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mới hình thành ở nước ta. Do đó, hiểu biết và nhận thức của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp về phương thức giải quyết bằng hòa giải thương mại vẫn còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp của Việt Nam chưa có thói quen sử dụng hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp của mình, thậm chí là chưa có niềm tin vào vai trò của hòa giải thương mại và khả năng thực thi các thỏa thuận hòa giải thành trong thực tế. Tâm lý và truyền thống sử dụng Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của cá nhân, doanh nghiệp.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ hòa giải viên thương mại mới được hình thành nên còn chưa đồng đều, chưa được đào tạo bài bản. Một số hòa giải viên thương mại chưa được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật, kỹ năng giải quyết tranh chấp hòa giải thương mại. Bên cạnh đó, mặc dù nhiều Trung tâm hòa giải thương mại được thành lập nhưng số lượng Trung tâm hòa giải thương mại được người dân, doanh nghiệp lựa chọn để giải quyết tranh chấp gần như chưa đáng kể.
Thứ ba, hiện nay, quy định của pháp luật về hòa giải thương mại còn chồng chéo, văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất mới chỉ là Nghị định nên hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế. Một số quy định tiên tiến của pháp luật về hòa giải thương mại của các nước như thời gian các bên giải quyết tranh chấp hòa giải thương mại không tính vào thời hiệu tố tụng chưa được quy định trong pháp luật tố tụng của Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng hòa giải thương mại của doanh nghiệp, người dân.
III. HÒA GIẢI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
Quy định này thể hiện chuyển hướng xử lý vi phạm pháp luật hình sự, cho phép người vi phạm pháp luật hình sự được gặp gỡ trực tiếp với người bị hại để nhận trách nhiệm về hành vi của mình cũng như về những thiệt hại đã gây ra, còn người bị hại có cơ hội bày tỏ thái độ của mình đối với hành vi vi phạm, được nhận lời xin lỗi và được bồi thường thiệt hại, hai bên đi đến thỏa thuận thống nhất cách giải quyết.
Ngày 113/9/2016, Tòa án nhân dân tối cao đã có Hướng dẫn số 276/TANDTC-PC về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015. Theo Hướng dẫn này, thì đây là quy định mới có lợi cho người phạm tội trong Bộ luật Hình sự 2015 và được phép áp dụng từ 1.7.2016.
Việc hòa giải để người phạm tội thấy được tội lỗi của mình trước người bị hại là việc làm nhân văn cần được khuyến khích. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có dạy rằng: “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử lại càng tốt hơn”. Trong lĩnh vực xét xử án, lời dạy của Bác ngụ ý là phải tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật cho nhân dân, hòa giải các tranh chấp trong nội bộ nhân dân; qua đó góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Thực tiễn xét xử nhiều năm qua cũng thể hiện tinh thần nhân văn này. Hơn nữa, hầu hết các vụ án hình sự đều có phần dân sự, mà đối với phần dân sự thì “hòa giải” lại là quy định bắt buộc đối với tòa án theo Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc hòa giải giữa người phạm tội với người bị hại còn có tác dụng giúp họ hàn gắn mâu thuẫn, thù oán. Đã có nhiều trường hợp ra tòa người bị hại xin (bãi nại) cho bị cáo được hưởng án treo để tiếp tục làm ăn và chăm sóc thân nhân của người bị hại đã qua đời, nhất là nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông. Lợi ích của việc hòa giải trong vụ án hình sự nhiều khi đem lại những tiện ích to lớn không chỉ đối với hai gia đình, mà còn đối với xã hội. Ví dụ vụ việc một người điều khiển xe tải do lấn đường nên đã gây tai nạn khiến một người bị tử vong tại Long An. Theo Khoản 1, Điều 202, Bộ luật Hình sự, người này bị khởi tố với mức hình phạt đến 5 năm tù nhưng do đã thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại và bên bị hại không yêu cầu xử lý hình sự, TAND huyện đã vận dụng quy định có lợi theo Bộ luật Hình sự 2015 để miễn trách nhiệm hình sự cho người này.
Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định về nguyên tắc hòa giải cũng như thẩm quyền, thủ tục hòa giải. Để thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự 2015 cũng như tạo thuận lợi trong quá trình xét xử của Tòa án, cần phải quy định cụ thể về thủ tục hòa giải trong hình sự, vì có những trường hợp, việc hòa giải đó không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm hay xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo. Đồng thời, khi đã quy định nguyên tắc hòa giải trong vụ án hình sự cũng cần phân biệt trường hợp nào bắt buộc hòa giải, trường hợp nào chỉ quy định nên hòa giải. Đối với vấn đề dân sự trong vụ án hình sự thì việc hòa giải là thủ tục bắt buộc đối với tòa án, trừ trường hợp Bộ luật tố tụng dân sự quy định không được hòa giải như: mức trợ cấp cho người mất khả năng lao động hay mức phí tổn nuôi con... Đây là những khoảng trống pháp lý cần lấp đầy để quy định nhân văn này được áp dụng hiệu quả. Ví dụ: A lừa đảo chiếm đoạt 500 triệu đồng của B thì tòa án không thể hòa giải để giảm số tiền A chiếm đoạt, vì số tiền này thuộc tình tiết định khung hình phạt. Tuy nhiên, tòa án vẫn có thể hòa giải giữa B và A về việc bồi thường thiệt hại đối với số tiền 500 triệu đồng vì B có thể chỉ yêu cầu A phải bồi thường ít hơn, thậm chí không phải bồi thường.
IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP TRƯỚC TỐ TỤNG
Trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước đã xác định tăng cường giải quyết tranh chấp bằng hòa giải[11], nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, với truyền thống coi trọng nghĩa tình của người dân Việt Nam, luôn mong muốn giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hòa giải, cho thấy công tác hòa giải tranh chấp trước tố tụng giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội để xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định và thịnh vượng.
Nhằm hoàn thiện thể chế, phát huy hiệu quả của công tác hòa giải trước tố tụng trong thời gian tới, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện một số quy định pháp luật về các nội dung sau:
1. Đối với hòa giải ở cơ sở
- Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định trường hợp hòa giải tại cộng đồng do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự” (Khoản 2 Điều 94). Vì vậy, kiến nghị sửa đổi, bổ sung thêm trường hợp hòa giải tại cộng đồng theo quy định của pháp luật hình sự không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hòa giải ở cơ sở vào khoản 2 Điều 1 Luật hòa giải ở cơ sở và thuộc trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở vào điểm đ Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP.
- Bổ sung trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự) thuộc phạm vi được hòa giải ở cơ sở.
- Sửa đổi quy định về quy trình, thủ tục bầu hòa giải viên tại Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN theo hướng đơn giản hơn, tránh việc hành chính hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ hòa giải nhanh chóng kiện toàn nhân sự nhằm phù hợp với thực tế, bản chất xã hội của công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng nguyện vọng của người dân.
2. Đối với hòa giải thương mại
- Trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến về hòa giải thương mại nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp về vai trò, tính hiệu quả của hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh trong việc tiếp cận dịch vụ hòa giải thông qua các hình thức như tổ chức hội thảo, tọa đàm, tuyên truyền, phổ biến, quảng bá hoạt động hòa giải trên các báo, đài, mạng internet.
- Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của quy định pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế, quy định pháp luật một số nước có hoạt động hòa giải thương mại phát triển như Anh, Mỹ, Liên minh Châu Âu…Nghiên cứu sửa đổi quy định của Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng thời gian tiến hành giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hạn tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo, hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp triển khai các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc thực thi thỏa thuận hòa giải đã cam kết; chỉ đạo Tòa án địa phương tuyên truyền, hướng dẫn, cho các bên về phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như trọng tài, hòa giải để các bên lựa chọn, trước khi đưa tranh chấp ra tòa nhằm giảm tải công tác xét xử của Tòa án đã quá tải từ lâu; tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán của các Tòa án địa phương về kiến thức pháp luật và kỹ năng giải quyết các vụ việc liên quan đến hòa giải thương mại.
- Đội ngũ hòa giải viên thương mại cần chủ động tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kỹ năng hỗ trợ giải quyết tranh chấp đặc biệt là trong các lĩnh vực chuyên sâu như đầu tư, thương mại quốc tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Các Trung tâm hòa giải thương mại cần có chính sách quảng bá, xây dựng hình ảnh, thương hiệu, uy tín cho Trung tâm; bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao tính chuyên nghiệp, trình độ cho đội ngũ hòa giải viên thương mại của Trung tâm qua đó tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.
3. Đối với hòa giải theo quy định của pháp luật hình sự
- Đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc hòa giải cũng như thẩm quyền, thủ tục hòa giải các trường hợp trong Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp, thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự 2015 cũng như tạo thuận lợi trong quá trình xét xử của Tòa án. Đồng thời, khi đã quy định nguyên tắc hòa giải trong vụ án hình sự cũng cần phân biệt trường hợp nào bắt buộc hòa giải, trường hợp nào chỉ quy định nên hòa giải./.
[1] Điều 181 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Những vụ án dân sự không được hoà giải
1. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội”.
[2] Quy định tại Điều 8 Luật Hòa giải ở cơ sở và Điều 12 Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
[3] Thù lao cho hòa giải viên có mức chi tối đa là 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải (quy định tại Khoản 19 Điều 4 Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014).
[4] Theo số liệu thống kê hàng năm của Bộ Tư pháp: Năm 2013, cả nước có 118.116 tổ hòa giải với 614.731 hòa giải viên. Năm 2014, có 118.662 tổ hòa giải với 666.872 hòa giải viên. Năm 2015, có 118.375 tổ hòa giải với 673.420 hòa giải viên. Năm 2016, có 111.649 tổ hòa giải với tổng số 661.183 hòa giải viên. Năm 2017 có 107.561 tổ hòa giải với 651.215 hòa giải viên. Năm 2018 có 104.619 tổ hòa giải với 651.788 hòa giải viên
[5] Năm 2014 tiếp nhận 116.164 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 157.836 vụ, việc; hòa giải thành là 128.046 vụ, việc.
Năm 2015 tiếp nhận 152.983 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 147.268 vụ, việc; hòa giải thành là 119.743 vụ, việc
Năm 2016 tiếp nhận 146.434 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 141.928 vụ, việc; hòa giải thành là 115.651 vụ, việc
Năm 2017 tiếp nhận 136.407 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 132.577 vụ, việc; hòa giải thành là 108.757 vụ, việc
Năm 2018 tiếp nhận 121.919 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 119.144 vụ, việc; hòa giải thành là 98.638 vụ, việc
Năm 2019 tiếp nhận 119.448 vụ, việc, tiến hành hòa giải là 115.804 vụ, việc; hòa giải thành là 95.138 vụ, việc
[6] Tỷ lệ hòa giải thành năm 2014 đạt 81,1%, năm 2015 đạt 81,3%, năm 2016 đạt 81,5%, năm 2017 đạt 82,03%, năm 2018 đạt 82,7%, năm 2019 đạt 82,1%
[7] Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Thuật ngữ “Alternative Dispute Resolution” (ADR) thường được dịch và sử dụng trong tiếng Việt là “Giải quyết tranh chấp thay thế” (từ “thay thế” ở đây được hiểu là “thay thế Toà án”).
[9] Ví dụ như ở Singapore, Hồng Kông, Mỹ, Anh…Kinh nghiệm của các nước này cho thấy phương thức này có những ưu điểm như giúp các bên tiết kiệm thời gian và chi phí, bảo vệ bí mật kinh doanh của các bên, tiếp tục duy trì mối quan hệ kinh doanh giữa các bên, tạo được sự tin cậy lẫn nhau…
[10] Các đạo luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật đầu tư, Luật thương mại, cam kết của Việt Nam khi ra nhập WTO, các Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư, Hiệp định thương mại song phương và đa phương...quy định các bên tranh chấp có thể lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
[11] như: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 03/10/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng…
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn