Phương thức và kỹ năng thực hiện lồng ghép phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) vào hoạt động tư vấn pháp luật

Thứ hai - 20/07/2020 06:14

1. Phương thức lồng ghép

Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động tư vấn pháp luật sẽ góp phần tăng thêm hiệu quả, ý nghĩa xã hội của hoạt động tư vấn pháp luật. Bởi vì, khi đó tư vấn pháp luật không chỉ phục vụ một người mà là phục vụ nhiều người cùng lúc. Kết quả là một lời khuyên đúng đắn không chỉ được áp dụng trong một trường hợp mà được nhân lên nhiều trường hợp, được sử dụng nhiều lần thay vì một lần. Hơn nữa, đây cũng là một cách thức hữu hiệu để thúc đẩy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phát triển, đa dạng hóa các kênh tuyên truyền pháp luật.

Song cần lồng ghép như thế nào để phù hợp và hiệu quả ?

Căn cứ vào các mô hình tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật trên thực tế, có thể lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật theo  các phương thức sau đây:

- Thứ nhất làlồng ghép thông qua quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai kế hoạch và cơ chế phối hợp, hỗ trợ thực hiện: 

 + Cần lập kế hoạch hàng năm hoặc dài hạn tùy theo điều kiện của từng địa phương và hệ thống tổ chức, trong đó cụ thể hóa về hoạt động, tổ chức thực hiện, kinh phí và các điều kiện cần thiết khác. Khi xác định rõ ràng mục đích và có kế hoạch thực hiện việc lồng ghép cụ thể thì quá trình tư vấn pháp luật kết hợp tuyên truyền pháp luật mới có tính định hướng, đem lại kết quả như mong muốn. ở đây, cần nhấn mạnh vai trò của các Sở Tư pháp – đầu mối trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương – sẽ là cầu nối, liên hệ chặt chẽ với các tổ chức chính trị-xã hội cùng cấp để xây dựng và triển khai kế hoạch phối hợp và Sở Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ khi cần thiết. 

+ Có sự phối hợp, hỗ trợ giữa các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ phổ biến giáo dục pháp luật đối với các tổ chức thực hiện tư vấn pháp luật trên cơ sở kế hoạch chung được hoạch định hoặc phối hợp theo từng hoạt động (hỗ trợ nhân lực, kinh phí thực hiện, tài liệu …).

Ví dụ: Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội Phụ nữ tỉnh A (một tỉnh biên giới) có kế hoạch tổ chức một cuộc tư vấn lưu động để giải đáp pháp luật, phổ biến về những quy định pháp luật liên quan đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong trường hợp phụ nữ chung sống với người nước ngoài mà không đăng ký kết hôn. Trung tâm đã mời báo cáo viên pháp luật của địa phương, cán bộ của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp tỉnh A tham gia cuộc tư vấn lưu động.

- Thứ hai làlồng ghép thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật trực tiếp của các Trung tâm tư vấn pháp luật, của Đoàn luật sư và luật sư, tổ tư vấn pháp luật, cán bộ đoàn thể: tăng cường và khuyến khích các cuộc tư vấn pháp luật lưu động kết hợp tuyên truyền pháp luật tại trụ sở của tổ chức, doanh nghiệp, tại gia đình, trường học v.v…Hiệu quả của hoạt động tư vấn pháp luật này được thể hiện rất rõ. Ví dụ: Hàng năm, chỉ riêng Hội Luật gia thành phố Hà Nội đã thực hiện tư vấn từ 1500 đến 2000 vụ việc, tư vấn qua điện thoại 1088 tính trung bình khoảng 3000 việc mỗi năm về tất cả các lĩnh vực pháp luật. Như vậy, khả năng lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tư vấn pháp luật có thể thực hiện đối với trên 40 Trung tâm tư vấn pháp luật và hàng chục chi nhánh của Trung tâm tại các tỉnh, thành phố, hơn 1000 văn phòng luật sư trong cả nước. Ngoài ra, rất nhiều hình thức hoạt động khác có thể lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật như: Văn phòng tư vấn pháp luật, tổ tư vấn pháp luật, các trung tâm hỗ trợ phụ nữ, nông dân, các câu lạc bộ pháp luật …    

- Thứ ba là, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ luật sư, cán bộ tư vấn pháp luật: đây là điểm còn thiếu và yếu cần được quan tâm bồi dưỡng, để đội ngũ nói trên tham gia tích cực, tự nguyện và có trách nhiệm đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Thứ tư là, biên soạn và phát hành các ấn phẩm tuyên truyền mang tính phổ thông, kết hợp hỏi đáp về những vấn đề pháp luật cụ thể gắn liền với đời sống hàng ngày (tờ rơi, tờ gấp, sách bỏ túi …). Các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền được cung cấp miễn phí và cần gửi đến các Trung tâm tư vấn pháp luật, các Đoàn luật sư, Văn phòng luật sư để người thực hiện tư vấn có thể phát tận tay đối tượng cần tìm hiểu. 

2. Những điều cần lưu ý khi thực hiện:

          a) Về đối tượng được tư vấn kết hợp với việc phổ biến, giáo dục pháp luật: cần tìm hiểu và có thông tin tương đối cụ thể về đối tượng được tư vấn - nhu cầu của họ (cần gì và thiếu cái gì), nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn (nếu có thể).

b) Về chủ đề pháp luật:

Căn cứ vào nhu cầu của đối tượng cần tư vấn, giải đáp pháp luật để kết hợp phổ biến, tuyên truyền những nội dung chính sách, vấn đề pháp luật có liên quan. Nội dung pháp luật cần cụ thể, không quá rộng, lan man hoặc quá cao siêu đối với mức độ hiểu biết của họ, vì như vậy sẽ không có tác dụng.  

c) Về thời gian, không gian, địa điểm, điều kiện kinh tế - xã hội:

Đây cũng là các yếu tố quan trọng cần cân nhắc khi lập kế hoạch và thực hiện việc lồng ghép. Ví dụ: khi tư vấn pháp luật trong vài phút qua điện thoại thì rất khó có thể tranh thủ tuyên truyền pháp luật, khác với việc tư vấn hàng giờ tại trụ sở của Trung tâm tư vấn pháp luật; hoặc các cuộc tư vấn cả ngày, cả buổi tại trụ sở doanh nghiệp; tư vấn tại thành phố, thị trấn sẽ không giống các cuộc tư vấn lưu động tại xã, thôn ở nông thôn, bản làng ở vùng sâu, vùng xa. 

d) Lựa chọn hình thức:

Tư vấn trực tiếp bằng miệng, gián tiếp (qua văn bản: thư trả lời, giải đáp qua báo, đài …), tại chỗ hoặc lưu động, xây dựng các diễn đàn, chuyên mục trên sóng phát thanh, truyền hình v.v…

đ) Yêu cầu đối với người thực hiện:

Khi tư vấn pháp luật hay tuyên truyền pháp luật, cán bộ thực hiện là chủ thể trong một quan hệ xã hội có tính đặc thù, không đơn thuần là giao tiếp xã hội thông thường. Họ không chỉ cần có kiến thức chuyên môn đảm bảo đủ khả năng để phục vụ hoặc cung cấp dịch vụ mà cần có vốn sống, hiểu biết xã hội nhất định và kinh nghiệm ứng xử phù hợp với vị trí của mình trong quan hệ với đối tượng cần được tư vấn, tuyên truyền pháp luật. Sau đây là những tố chất, kỹ năng cần thiết nhất đối với người cán bộ vừa thực hiện tư vấn pháp luật vừa làm công tác tuyên truyền pháp luật: 

- Có kiến thức pháp lý vững vàng: có bột mới gột nên hồ, nếu cán bộ tư vấn không vững về kiến thức pháp luật thì sẽ làm giảm chất lượng tư vấn, tuyên truyền pháp luật, mặt khác, cũng không tự tin khi thực hiện công việc. 

- Thường xuyên tích lũy tư liệu, kiến thức: đời sống xã hội càng phát triển, các văn bản pháp luật trong hầu hết các lĩnh vực được ban hành ngày ngày nhiều, nhu cầu về tư vấn pháp luật ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp. Trong bối cảnh đó, cán bộ tư vấn phải không ngừng cập nhật kiến thức pháp luật mới, tìm tòi qua các nguồn thông tin, tài liệu, tích lũy kinh nghiệm để xử lý kịp thời những vấn đề mà công việc đặt ra.

- Có khả năng nói và viết tốt: đây là hai kỹ năng không hoàn toàn do thiên bẩm mà chỉ có được qua quá trình rèn luyện nghiêm túc, rút kinh nghiệm từ thực tế công việc hàng ngày. 

- Nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc: có thể nói đây là một phẩm chất không thể thiếu của những người làm công tác xã hội. Họ đặt mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội lên hàng đầu, dù trên thực tế chế độ lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ còn rất thấp, chưa tương xứng với sự cống hiến của họ.  

- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp: Rất nhiều cán bộ tư vấn pháp luật khẳng định rằng, trước khi bắt đầu vào việc tư vấn, cần phải tạo được không khí thân thiện, cởi mở cho người đến yêu cầu tư vấn. Qua những cư xử trong giao tiếp thông thường như chủ nhà tiếp khách (chào hỏi, mời ngồi, pha trà, rót nước,  …), cán bộ tư vấn đã gây được ấn tượng tốt và tin cậy cho khách hàng của mình.  

- Hiểu biết về tâm lý: Không thể tư vấn và tuyên truyền pháp luật một cách hiệu quả nếu thiếu kỹ năng giao tiếp, thiếu hiểu biết về tâm lý của đối tượng mà mình đang phục vụ. Điều này càng quan trọng hơn khi đứng trước một đám đông trong các cuộc tư vấn, tuyên truyền lưu động. Cùng với khả năng thuyết trình thì cán bộ tư vấn, tuyên truyền cần có sự nhanh nhạy nắm bắt tâm lý của đám đông và điều chỉnh ngôn ngữ kịp thời, phù hợp với sự đón nhận và phản ứng của họ. 

- Có vốn sống, am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán: Thông thường, cán bộ tư vấn càng lâu năm thì càng thu được nhiều kết quả tốt trong công việc. Bởi lẽ, họ không chỉ tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm mà còn có bề dày về vốn sống, biết vận dụng sự am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của các vùng miền, các dân tộc vào phục vụ cho công việc của mình. Đây là điểm rất cần định hướng cho những cán bộ trẻ khi làm công tác xã hội, càng tích lũy vốn sống, tự trau dồi kiến thức về văn hóa sẽ là nền tảng vững chắc giúp họ thành công hơn trong hoạt động nghề nghiệp.  

e) Phương tiện, thiết bị hỗ trợ:

Mặc dù là một phương thức có khả năng chuyển tải mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật, nhưng để có được hiệu quả như mong muốn thì hoạt động tư vấn pháp luật cần có sự kết hợp, hỗ trợ của một vài phương thức tuyên truyền pháp luật khác, ví dụ: nghiệp vụ, kỹ năng truyên truyền miệng, sử dụng băng tiếng, băng hình, tờ rơi, tờ gấp, tài liệu tuyên truyền khác, khai thác tiện ích của các phương tiện truyền thông, hệ thống truyền thanh ở cơ sở…  

3. Một số vấn đề nghiệp vụ

Nhiều người quan niệm rằng phổ biến, giáo dục pháp luật thường chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn ban đầu khi một văn bản pháp luật vừa mới được ban hành. Nội dung công việc này hết sức đơn giản, chỉ là phổ biến ý nghĩa và nội dung của các quy định pháp luật mới đó. Tuy vậy, thực tế thời gian qua đã chứng minh là phổ biến, giáo dục pháp luật đã không chỉ vươn tới về bề rộng (càng đông đảo người dân biết luật càng tốt) mà đã bước đầu đi vào chiều sâu nhờ thông qua một số hoạt động gắn liền với quá trình áp dụng pháp luật, ví dụ: hoạt động xét xử của tòa án, thi hành án, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, hòa giải cơ sở, …

Như vậy, tư vấn pháp luật cũng góp phần vào nhiệm vụ giáo dục pháp luật, hoạt động này có chiều sâu hơn, chứa hàm lượng tri thức nhiều hơn việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật một cách đơn giản, mang tính phổ cập đại trà.

Đối với người tư vấn pháp luật, có thể tham khảo một số gợi ý sau đây để vận dụng vào quá trình tư vấn lồng ghép với phổ biến, giáo dục pháp luật:

a) Tìm hiểu đối tượng được tư vấn và phổ biến, giáo dục pháp luật

- Tiếp cận và tìm hiểu các thông tin liên quan: Để biết một cá nhân, một tổ chức muốn được tư vấn pháp luật về vấn đề gì, cán bộ tư vấn cần tranh thủ các cơ hội có thể để tiếp cận và tìm hiểu đối tượng: qua trao đổi trên điện thoại, qua gặp gỡ trò chuyện tại trụ sở Trung tâm tư vấn pháp luật hoặc tại nhà riêng, tại văn phòng của doanh nghiệp … Cán bộ tư vấn cần đặt các câu hỏi thích hợp với thái độ của đối tượng đến yêu cầu tư vấn, dẫn dắt cuộc trò chuyện, gợi mở từng vấn đề để có những thông tin cơ bản và liên quan trực tiếp đến việc tư vấn. 

- Xác định rõ mục đích, nhu cầu: Sau khi biết được những thông tin cần thiết, cán bộ tư vấn cần khẳng định lần nữa về mục đích và nhu cầu của đối tượng cần tư vấn. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với những công việc tiếp theo của cán bộ tư vấn. Bởi vì, nếu họ hỏi về một vấn đề pháp luật chỉ để biết thì việc tư vấn chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin, giới thiệu về quy định pháp luật, hướng dẫn việc tìm tài liệu pháp luật. Trong trường hợp họ thực sự có vướng mắc pháp luật thì vụ việc phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị các phương án trả lời trước khi đưa ra ý kiến tư vấn trực tiếp, chính thức cho đối tượng.  

Trong trường hợp nhận được yêu cầu tư vấn bằng văn bản, cán bộ tư vấn có thể tìm hiểu thông tin cụ thể bằng cách gửi văn bản hỏi hoặc liên hệ trực tiếp với đối tượng yêu cầu tư vấn qua điện thoại, hẹn gặp trực tiếp. Thông thường việc yêu cầu tư vấn dưới hình thức văn bản cũng thể hiện tương đối rõ mục đích và nhu cầu tư vấn pháp luật. Nhờ đó, cán bộ tư vấn cũng dễ xác định được nội dung pháp luật cần thiết để tập trung trao đổi về vấn đề đó. Tuy nhiên, không phải mọi đơn thư hay văn bản yêu cầu tư vấn pháp luật đều thể hiện một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu. Cán bộ tư vấn phải biết chọn lọc và tìm ra trúng mục đích, vấn đề chính mà người ta hỏi mình tư vấn.  

b)  Công tác chuẩn bị

- Về nội dung tư vấn và tuyên truyền:

Cần tạo thói quen chuẩn bị cẩn thận, tỉ mỉ về nội dung, tài liệu trước khi thực hiện tư vấn hay phổ biến một quy định pháp luật. Để có thể ứng phó với mọi tình huống, cán bộ tư vấn cần thường xuyên tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để có thể tự tin khi trao đổi thông tin một cách trực tiếp; hoặc hẹn trả lời sớm sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, tài liệu. Do vậy, nội dung pháp luật được đưa ra tư vấn hay tuyên truyền sẽ đảm bảo tính chính xác cao, thông qua xử lý thông tin của cán bộ tư vấn hoặc có sự trao đổi nghiệp vụ với đồng nghiệp.

- Về lựa chọn hình thức:

Cán bộ tư vấn có thể ở thế chủ động hoặc bị động trong việc lựa chọn hình thức tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, dù ở hoàn cảnh nào, cán bộ tư vấn cũng cần lựa chọn cho mình một cách giải thích, hướng dẫn càng đơn giản càng tốt, mang tính thuyết phục nhất giúp cho đối tượng dễ nghe, dễ hiểu và dễ thực hiện. Trong trường hợp tổ chức các cuộc tư vấn và phổ biến, giáo dục tại chỗ hoặc lưu động thì cán bộ tư vấn có vai trò chủ động để đưa ra hình thức tư vấn (thuyết trình, hỏi đáp, đóng vai diễn các tình huống pháp luật, v.v…). 

- Về chuẩn bị phương tiện hỗ trợ:

Tại các cuộc tư vấn kết hợp tuyên truyền pháp luật có vài chục hoặc hàng trăm người tham dự, các thiết bị âm thanh, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ là yếu tố không thể thiếu góp phần tăng hiệu quả của cuộc tư vấn đó, ví dụ: loa đài, tivi, máy chiếu, màn hình chiếu, băng, đĩa, sách, tranh ảnh minh họa … 

c) Thực hiện việc cung cấp thông tin, hướng dẫn, giải đáp 

Dù ở mức độ nông hay sâu, rộng hay hẹp thì kết quả của những thao tác trong quá trình tư vấn đã giúp cho một người, một nhóm hay một tổ chức có điều kiện biết đến các quy định pháp luật, một hoặc nhiều văn bản pháp luật về vấn đề đó. Đối với những người đã biết, khi được tư vấn để giải quyết một vướng mắc, vụ việc pháp luật cụ thể thì họ lại có dịp hiểu sâu hơn và biết cách vận dụng quy định pháp luật đó đối với hoàn cảnh cụ thể của mình thế nào.     

d) Sự linh hoạt, tự tin của người tư vấn pháp luật

Để có thể kết hợp việc phổ biến, giáo dục pháp luật qua nội dung tư vấn pháp luật, cán bộ tư vấn cần hết sức linh hoạt, tránh sự gượng ép. Không nên đưa ra những vấn đề quá xa, quá sâu, chẳng có chút liên hệ với nội dung mình đang tư vấn. Đối với một nhóm đối tượng nhất định, ví dụ: người lao động trong 1 khu công nghiệp, phụ nữ nông thôn, thì cán bộ tư vấn pháp luật có thể liên hệ đến một số vấn đề pháp luật thiết thực đối với cuộc sống và công việc hiện tại của họ như: về tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, đăng ký kết hôn, …

đ) Đánh giá kết quả công việc và rút kinh nghiệm

Một thao tác không thể bỏ qua trong mỗi hoạt động tư vấn hay tuyên truyền pháp luật là phải có sự nhìn lại, đánh giá những việc đã làm xem điều gì đạt được, điều gì chưa được và cần rút kinh nghiệm cho lần sau. Mỗi cán bộ tư vấn có thể tự mình rút ra một số bài học, kinh nghiệm hữu ích từ từng hoạt động hoặc chia sẻ thu hoạch của mình với đồng nghiệp tại các cuộc họp tổng kết để khái quát thành bài học, kinh nghiệm chung.

Tóm lại, kết hợp những nội dung gì để phổ biến pháp luật, lồng ghép những vấn đề gì để giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân, cho cơ quan, tổ chức tùy thuộc vào sự nhanh nhạy, linh hoạt của cán bộ tư vấn pháp luật. Cán bộ tư vấn pháp luật cần vận dụng kiến thức pháp luật, sự hiểu biết, kỹ năng về phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện tư vấn pháp luật để hoạt động này càng thêm ý nghĩa và hiệu quả trên thực tế./.

Tác giả bài viết: Trung tâm Tư vấn pháp luật TP. Hồ Chí Minh

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây