Một số kết quả đạt được trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

Thứ hai - 09/03/2020 05:49
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) đã ngày càng phủ rộng đối tượng được PBGDPL, trong đó tập trung vào 05 nhóm đối tượng cần ưu tiên là nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ; cán bộ, công chức; thanh thiếu niên; người lao động, người quản lý; cán bộ công đoàn và lực lượng vũ trang nhân dân.

1-  Về đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật

Công tác PBGDPL đã ngày càng phủ rộng đối tượng được PBGDPL, trong đó tập trung vào 05 nhóm đối tượng cần ưu tiên là nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ; cán bộ, công chức; thanh thiếu niên; người lao động, người quản lý; cán bộ công đoàn và lực lượng vũ trang nhân dân.

Mọi đối tượng thuộc các tầng lớp nhân dân thuộc nhiều vùng miền khác nhau đều được phổ biến các văn bản pháp luật phù hợp với đối tượng đó. Thông qua PBGDPL, cán bộ, nhân dân được tìm hiểu, học tập pháp luật thuận lợi, kịp thời hơn; nhận thức pháp luật của nhân dân có chuyển biến rõ nét. Ở nhiều địa phương, tình hình khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, sai pháp luật có chiều hướng giảm.

Việc giáo dục pháp luật được triển khai ở các cấp học, trình độ đào tạo; ở hầu hết các cơ sở giáo dục, đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, giúp người học có kiến thức cơ bản về pháp luật, phù hợp với từng đối tượng học.

2- Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật

Việc định hướng nội dung pháp luật cần phổ biến về cơ bản là phù hợp, đã bám sát các chủ trương, chính sách lớn của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương. Từ đó các cấp, các ngành đã tập trung vào những quy định pháp luật gắn liền với các chủ trương, chính sách nêu trên, lấy tiêu chí đặc điểm địa bàn và đối tượng làm cơ sở để xây dựng và triển khai kế hoạch PBGDPL, gắn công tác PBGDPL với thực tiễn chấp hành pháp luật. Tuỳ theo yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể, căn cứ vào nhu cầu thực tế của cán bộ, nhân dân, trong thời gian qua, hàng ngàn văn bản pháp luật quan trọng, liên quan đến cuộc sống hàng ngày của các tầng lớp cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp đã được phổ biến như các quy định pháp luật về dân sự, kinh tế (như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp...); về quyền dân chủ của công dân (như Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Nghị quyết số 388/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra; các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở...); về an ninh, trật tự (như Bộ luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ, Luật Biên giới quốc gia, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Biển Việt Nam, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm...); về hội nhập kinh tế quốc tế (như Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, các quy định liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO...); về văn hoá - xã hội (như Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Người cao tuổi, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo...);

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và tình hình cụ thể, các địa phương đã triển khai phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương, của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân địa phương phù hợp với nhu cầu từng đối tượng, địa bàn: các tỉnh biên giới tuyên truyền Luật Biên giới quốc gia; các tỉnh miền núi tập trung triển khai Luật Bảo vệ và phát triển rừng; các tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất quan tâm phổ biến pháp luật lao động; giải quyết tranh chấp lao động... Các văn bản pháp luật do chính quyền địa phương ban hành được quan tâm phổ biến  nhiều hơn so với trước đây. Các địa phương đã chú ý đến việc phổ biến các nội dung pháp luật gắn với các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng của đất nước và địa phương (bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các lễ hội lớn, hội nghị quốc tế lớn diễn ra tại Việt Nam). Bên cạnh đó, việc lồng ghép nội dung pháp luật với quy ước, hương ước, luật tục tiến bộ cũng được nhiều địa phương coi trọng.

3- Kết quả hoạt động thông qua các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

Việc PBGDPL cho cán bộ, nhân dân được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Để đảm bảo hiệu quả cao khi PBGDPL, các ngành, các cấp đều có sự lựa chọn các hình thức phù hợp với đối tượng, địa bàn nhất định. Các hình thức, biện pháp PBGDPL truyền thống tiếp tục được vận dụng sáng tạo bên cạnh các hình thức PBGDPL mới.

Phổ biến pháp luật trực tiếp được sử dụng như một hình thức phổ biến pháp luật quan trọng, gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức phổ biến khác và là một bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời trong tổng thể các hình thức PBGDPL. Đây là hình thức chiếm ưu thế, đang được tất cả bộ, ngành, địa phương sử dụng thường xuyên thông qua việc học pháp luật, hội nghị, hội thảo, toạ đàm, các lớp tập huấn và một số hoạt động khác. Trong nhiều hội nghị, hội thảo, toạ đàm, lớp tập huấn đã tăng cường thảo luận, trao đổi, đối thoại để nắm bắt vướng mắc, nhu cầu của người nghe và giải đáp đúng những vấn đề mà họ cần. Bên cạnh đó, nhiều địa phương chú trọng nội dung tập huấn, thảo luận theo chuyên đề, lồng ghép phổ biến kiến thức pháp luật trong các buổi họp thôn, họp giao ban.

Việc PBGDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng được phát huy như một hình thức đang giữ nhiều ưu thế.

Nhận thức được lợi thế của hình thức này trong giai đoạn hiện nay là phổ cập, nhanh chóng, kịp thời, rộng khắp, hấp dẫn và có đông đảo bạn đọc, khán thính giả trong nước và nước ngoài, do đó, các bộ, ngành, địa phương đã tiếp tục duy trì và đẩy mạnh PBGDPL qua các kênh của Đài phát thanh và truyền hình Trung ương và địa phương. Các chuyên trang, chuyên mục trên các loại hình báo chí được củng cố và cải tiến, tăng về số lượng, cách trình bày hấp dẫn dưới nhiều hình thức (hỏi đáp, tình huống, tiểu phẩm, phóng sự, giới thiệu văn bản, nghiên cứu trao đổi ...) và nội dung có ý nghĩa, thiết thực. Một số địa phương đã xây dựng mới các chuyên mục mang tính đặc thù (chương trình thử nghiệm trên truyền hình bằng bốn thứ tiếng dân tộc của Bộ Tài nguyên và Môi trường; phát thanh song ngữ tiếng Kinh-Tày, Dao, Mông, Giáy, chuyên mục tiếng dân tộc của Đài phát thanh Lào Cai, Sơn La, Trà Vinh; ...). Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật lưu động thông qua đội phát thanh, đội chiếu phim lưu động đã phát huy được hiệu quả đối với những vùng, miền có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa (An Giang). Chương trình "Gặp gỡ và đối thoại" (Cần Thơ), đi phân phát báo đến tận vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc (Hậu Giang), đội kịch lưu động (thành phố Hồ Chí Minh) đã phát huy tác dụng tốt. Hệ thống đài truyền thanh hầu hết các huyện, xã đều có chương trình, chuyên mục phát thanh pháp luật. Gần 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước đã có hệ thống loa truyền thanh cơ sở, thời điểm phát sóng phù hợp với sinh hoạt của dân cư.

Tài liệu phổ biến pháp luật đã được biên soạn theo hướng phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng, địa bàn, đáp ứng tính thời sự và yêu cầu phổ biến pháp luật trong từng giai đoạn. Tài liệu pháp luật được biên soạn, phát hành đa dạng hơn nhiều so với trước đây. Ngoài sách hỏi đáp, sách chuyên đề, sổ tay pháp luật, sách nghiệp vụ, tờ gấp, đề cương giới thiệu luật, sách song ngữ Việt-Anh, tiếng Việt-tiếng dân tộc còn có các loại tài liệu khác như băng tiếng, băng hình, trong đó thu băng các cuộc nói chuyện về pháp luật, xây dựng phóng sự, tiểu phẩm pháp luật, tình huống pháp luật, phim về đề tài pháp luật. Sáng kiến xây dựng đĩa CD, CD-ROM pháp luật để ứng dụng máy tính tra cứu pháp luật nhanh chóng, thuận tiện. Các tài liệu mang tính trực quan như pa-nô, áp-phích, tranh cổ động, khẩu hiệu, tờ tin ảnh, băng rôn về chủ đề pháp luật được sử dụng khá nhiều, phổ biến hơn cả là trong thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá lớn.

Trong 06 tháng đầu năm 2012, các địa phương đã biên soạn và phát hành 17.503.498 bản tài liệu pháp luật các loại, trong đó một số địa phương biên soạn và phát hành nhiều tài liệu là: TP Hồ Chí Minh (5.153.038 bản), tỉnh Tiền Giang (3.806.955 bản), Thành phố Hải Phòng (1.477.119 bản), tỉnh Thái Bình (635.639 bản), Thành phố Hà Nội (594.000 bản)…. Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn phát hành tài liệu pháp luật song ngữ bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số phục vụ công tác phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc như: Từ năm 1999 đến năm 2009, Kon Tum phát hành 600.000 tài liệu được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, Đăk Lăk: 231.386, Kiên Giang: 222.000….

  Các cuộc thi tìm hiểu pháp luật diễn ra sôi nổi và ngày càng được đổi mới về cách thức tổ chức. Trong các hình thức PBGDPL, thi tìm hiểu pháp luật là một trong những hình thức tuyên truyền, PBGDPL hấp dẫn, có hiệu quả cao. Chính vì vậy trong 10 năm qua, cả nước đã tổ chức được 54.000 cuộc thi và hội thi lớn nhỏ, hơn 176.000 cuộc giao lưu sinh hoạt văn hoá, văn nghệ có lồng ghép nội dung pháp luật. Cách thức tổ chức, hình thức thi đã có nhiều cải tiến. Ngoài thi viết truyền thống, có nơi tổ chức thi trắc nghiệm, thi vấn đáp, thi sân khấu hoá, hái hoa dân chủ, thi theo chủ đề có nội dung liên quan tới nghề nghiệp, công việc của đối tượng dự thi như  “Hòa giải viên giỏi”, "Hộ tịch viên giỏi", "Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức Tư pháp-hộ tịch giỏi"...Việc tổ chức thi qua mạng, gửi tin nhắn điện thoại với chủ đề tìm hiểu pháp luật trở nên phổ biến hơn. Ngoài việc tổ chức các cuộc thi trên phạm vi toàn quốc tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến đông đảo người dân (thi tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, Luật giao thông đường bộ, Luật cư trú...), nhiều bộ, ngành, địa phương chủ động tổ chức thi tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị mình, theo nhu cầu của từng nhóm đối tượng cụ thể. Các cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ lồng ghép nội dung thi pháp luật được tổ chức thường xuyên giúp cán bộ, nhân dân nắm bắt pháp luật thuận tiện, kịp thời.

Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật, một hình thức phản ánh sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền, cơ quan tư pháp, các ban ngành liên quan trong việc đưa pháp luật đến gần dân hơn.

Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đến hết tháng 12 năm 2011, 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều đã triển khai xây dựng tủ sách pháp luật. Hiện cả nước có 65.182 tủ sách pháp luật các loại, trong đó hầu hết các tỉnh, thành phố đã xây dựng tủ sách pháp luật ở 100% đơn vị cấp xã. Một số địa phương đã cố gắng nỗ lực thành lập số tủ sách pháp luật nhiều hơn số đơn vị cấp xã như các tỉnh, thành phố : An Giang, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Cần Thơ...Tủ sách pháp luật, ngăn sách pháp luật, túi sách pháp luật được xây dựng ở xã, phường, thị trấn, được đặt ở điểm bưu điện văn hoá xã, thôn, làng, ở nhà văn hoá, ấp nhân dân, ở cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp. Các cấp đã chủ động và sáng tạo, đa dạng hoá các biện pháp quản lý, khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật. Một số địa phương đã thể hiện sự năng động trong việc lựa chọn mô hình xây dựng và địa điểm đặt tủ sách pháp luật với các hình thức Tủ sách pháp luật ở điểm bưu điện văn hóa xã, thư viện cấp xã (như các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Lâm Đồng...); Tủ sách pháp luật trong chùa của đồng bào dân tộc Khơme (Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang...); xây dựng mô hình tủ sách pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số (Lào Cai...); tủ sách pháp luật ở bản miền núi (Thanh Hóa...), Tủ sách pháp luật ở nhà văn hóa thôn (Bắc Ninh...), tủ sách pháp luật tại thôn, làng, tổ dân phố, cụm dân cư (Hà Nội, Bắc Kạn...) hoặc thực hiện mô hình túi sách lưu động, gùi sách pháp luật ở các xã vùng sâu, vùng xa (Quảng Ngãi, Quảng Bình...), giỏ pháp luật ở các khu công nghiệp (Bình Dương).

Nhìn chung trong thời gian qua tủ sách pháp luật cấp xã đã trở thành chỗ dựa, là công cụ để cán bộ, công chức tra cứu, tìm hiểu pháp luật, phục vụ công tác phổ biến pháp luật và các hoạt động điều hành, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của người dân.

Tăng cường PBGDPL thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, đẩy mạnh tư vấn, trợ giúp lưu động cho đồng bào dân tộc thiểu số, các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.

PBGDPL thực hiện lồng ghép qua các hoạt động trên là một cách thức hữu hiệu để thúc đẩy công tác PBGDPL phát triển, đa dạng hóa các kênh tuyên truyền pháp luật. Việc huy động các Trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý tham gia PBGDPL là một trong những hình thức xã hội hóa công tác PBGDPL trong cộng đồng. Chỉ tính trong 05 năm (2003-2007), cả nước có 36.919 tổ chức tư vấn pháp luật, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, câu lạc bộ pháp luật đã thực hiện 114.565 cuộc tư vấn, trợ giúp. Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động tiếp tục được tăng cường tại các địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số.

Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Tính đến tháng 12/2011, cả nước121.251 Tổ hòa giải với  628.530 hòa giải viên. Tính từ khi Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 có hiệu lực thi hành đến tháng 12/2011, tổng số vụ, việc nhận hòa giải là 4.358.662 (vụ), trong đó số vụ, việc hòa giải thành là 3.488.144 (vụ), đạt tỷ lệ 80,03%. Nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ hòa giải thành cao trên 85 % như Lai Châu (85,5%), Phú Thọ (86,7%), Sơn La (86,8%), Quảng Ninh (86,9%), Hà Giang (87%), Hòa Bình (87,1%), Quảng Bình (88,3%), Đà Nẵng (88,57%), Lào Cai (89,7%), Thừa Thiên Huế (90,1%), Hà Nội (90,6%), Thái Bình (92,7%). Hòa giải ở cơ sở đã góp phần hạn chế vi phạm pháp luật, giảm thiểu số vụ, việc tranh chấp phải đưa lên cơ quan có thẩm quyền và Tòa án giải quyết; giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

  Đẩy mạnh phổ biến pháp luật qua hoạt động xét xử. Ngành Toà án đã tăng cường xét xử lưu động tại địa bàn xảy ra vụ án hoặc nơi người phạm tội cư trú. Có Toà án đã giao chỉ tiêu xét xử lưu động cho Toà án cấp dưới (Quảng Ninh, Phú Yên, Long An). Thực hiện Đề án thứ tư của Chương trình hành động quốc gia về PBGDPL từ năm 2005 đến năm 2010 (Chương trình 212) "Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn" (Bộ Tư pháp chủ trì), với tư cách là cơ quan phối hợp trong Đề án, Toà án nhân dân Tối cao đã hướng dẫn Toà án nhân dân địa phương tổ chức xét xử lưu động một số vụ án theo nội dung của Đề án đạt kết quả tốt. Tuy số lượng vụ án xét xử lưu động chưa nhiều nhưng đã phát huy tác dụng răn đe, giáo dục đối với người phạm tội và những người tham dự phiên toà.

Việc lồng ghép PBGDPL với việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước, các phong trào, lễ hội truyền thống tiếp tục được duy trì và đã có những nét mới. Các bộ, ngành, địa phương triển khai tuyên truyền, phổ biến pháp luật gắn với các phong trào ở từng địa bàn cụ thể như phong trào "bốn không": Thôn, làng không có người vi phạm pháp luật; không có khiếu kiện trái pháp luật, đông người, kéo dài; không có người vượt biên trái phép; không có người tham gia tổ chức phản động Fulro (Gia Lai); phong trào 3 không :"không tin, không theo, không nghe" (Lâm Đồng); áp dụng phương châm "nghe dân nói, nói dân nghe", "nghe phụ nữ nói, nói phụ nữ nghe, giúp phụ nữ hiểu" (Bình Thuận ); triển khai mô hình " điểm sáng vùng cao" (Nghệ An), lồng ghép phổ biến pháp luật trong các lễ hội truyền thống, văn hoá như "lễ hội ăn thề với rừng" (Gia Lai, Lào Cai), phổ biến pháp luật trên thuyền văn hoá (Cần Thơ), "lễ hội văn hoá miền biển" (Bình Định).

Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các biện pháp khác trong PBGDPL đã được quan tâm chỉ đạo sát sao hơn.  Các bộ, cơ quan ngang bộ đã kết nối mạng Internet, xây dựng Website, sử dụng mạng LAN trong PBGDPL: Trang thông tin PBGDPL riêng (Bộ Tư pháp); đưa văn bản pháp luật mới ban hành trên mạng thông tin điện tử bằng tiếng nước ngoài (Thông tấn xã Việt Nam); xây dựng phần mềm giao lưu trực tuyến (Bộ Tài nguyên và Môi trường); thông qua mạng misten trong nội bộ Quân đội (Bộ Quốc, phòng)... 100% UBND cấp tỉnh đã nối mạng tin học diện rộng của Chính phủ, mạng Internet; nhiều đơn vị cấp huyện, cấp xã đã ứng dụng Internet trong PBGDPL, xây dựng trang chuyên đề về PBGDPL (Sở Tư pháp Lạng Sơn, Bắc Ninh).

     Các hình thức PBGDPL mới đã được một số địa phương triển khai như: ký cam kết không vi phạm pháp luật với đối tượng như học sinh, sinh viên, nhân dân ở tổ dân phố, khu dân cư, cụm dân cư, trường học. Việc xây dựng và triển khai các hoạt động PBGDPL của đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cơ sở là hình thức cần phát huy trong thời gian tới. Bên cạnh đó, các hình thức như: "Ngày pháp luật" (đang được triển khai trong cả nước), "Phiên chợ pháp luật" (Hà Giang, Lào Cai), "Sân khấu nhà nông" ở Hà Tĩnh, Bắc Giang, Hải Dương…giải đáp pháp luật trực tuyến (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã mang lại những hiệu quả thiết thực.

4-  Về phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường

Trong thời gian qua, giáo dục pháp luật trong nhà trường luôn được đổi mới nội dung và phương pháp. Nội dung pháp luật được thực hiện qua chương trình môn học Đạo đức ở cấp tiểu học; môn học Giáo dục công dân ở cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông; môn học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học; các môn học trong cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân. Các cơ sở giáo dục mầm non đang thực hiện lồng ghép giáo dục một số nội dung pháp luật.

Bên cạnh đó, các nội dung pháp luật liên quan còn được tích hợp ở một số môn học khác như các môn: Tự nhiên xã hội, Giáo dục quốc phòng, an ninh ở phổ thông, các môn chuyên ngành ở giáo dục trung cấp chuyên nghiệp và giáo dục đại học. Nội dung, chương trình, sách giáo khoa môn học giáo dục công dân và nội dung, chương trình, giáo trình nhà nước và pháp luật đại cương được cải tiến phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đào tạo. Nhiều địa phương đã phối hợp đưa chương trình giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội vào trường học. Phương pháp giáo dục pháp luật đổi mới theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động của sinh viên, học sinh trong học tập pháp luật. Bên cạnh đó, các trường học còn coi trọng lồng ghép PBGDPL trong giảng dạy các môn học, thông qua giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như: sinh hoạt công dân-học sinh, hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ và các hình thức PBGDPL khác như tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giáo viên, trên phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật, tư vấn pháp luật...

5- Công tác kiểm tra hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

Trong thời gian qua, việc thực hiện kiểm tra công tác PBGDPL của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương được thực hiện đều đặn và thường xuyên hơn. Qua kiểm tra đã kịp thời hướng dẫn các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong công tác PBGDPL, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo, hướng dẫn sát hợp với tình hình ở địa phương, đơn vị, cơ sở. Thông qua hoạt động kiểm tra đã phát hiện, hướng dẫn nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong công tác PBGDPL. Hàng năm, Hội đồng của Chính phủ ban hành Kế hoạch kiểm tra, trong đó có hướng dẫn các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương tiến hành tự kiểm tra và thành lập các đoàn trực tiếp đi kiểm tra công tác PBGDPL tại một số bộ, ngành, địa phương. Từ năm 2005 đến 2012, Hội đồng phối hợp của Chính phủ đã tổ chức được 23 đoàn kiểm tra công tác PBGDPL tại nhiều Bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, hằng năm, Hội đồng phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương cũng thường xuyên tiến hành kiểm tra tại đơn vị thuộc Bộ, ngành, địa phương mình.

 

Tác giả bài viết: Trung tâm Tư vấn pháp luật tại TP. Hồ Chí Minh

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây